Nghị định 462-TTg năm 1957 quy định việc sử dụng những đất công ở ven biển hoặc ven sông nước mặn còn bỏ hoang bỏ hóa để trồng cói do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 462-TTg
Ngày ban hành 07/10/1957
Ngày có hiệu lực 22/10/1957
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Phó Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Văn Đồng
Lĩnh vực Bất động sản,Tài nguyên - Môi trường

PHÓ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 462-TTg

Hà Nội, ngày 07 tháng 10 năm 1957 

 

NGHỊ ĐỊNH

QUY ĐỊNH VIỆC SỬ DỤNG NHỮNG ĐẤT CÔNG Ở VEN BIỂN HOẶC VEN SÔNG NƯỚC MẶN CÒN BỎ HOANG BỎ HÓA ĐỂ TRỒNG CÓI

 THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Để khuyến khích việc phục hồi và phát triển sản xuất cói, nhằm bảo đảm cung cấp cói cho các nghề thủ công, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và nhu cầu xuất khẩu ;
Theo nghị định của các ông Bộ trưởng Bộ Nông lâm và Bộ trưởng Bộ Tài chính.

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. Những bãi đất công ở ven biển hoặc ven sông nước mặn đến nay còn bỏ hoang hay bỏ hóa mà trong cải cách ruộng đất chưa chia cho nông dân, thì nay giao cho nông dân để trồng trọt, chủ yếu là để trồng cói.

Khi giao những loại đất ấy, phải dành lại một số diện tích cần thiết để làm những việc lợi ích công cộng khác như : đắp đê, trồng cây chống sóng, trồng cỏ để chăn nuôi, làm sân phơi,v.v…

Những người nhận đất để trồng cói được quyền sử dụng đất từ mười đến mười lăm năm. Ủy ban Hành chính tỉnh sẽ căn cứ vào tập quán canh tác của từng vùng mà quy định cụ thể.

Điều 2.  Việc giao đất cho nông dân trồng cói, dựa trên những nguyên tắc sau đây :

a) Tùy theo khả năng về đất đai của địa phương và khả năng lao động của mỗi nông hộ mà giao đất cho người xin đất.

Ở những nơi đất ít mà có nhiều người xin đất, thì các gia đình liệt sĩ, thương binh, quân nhân tại ngũ, những người đã quy sai trong cải cách ruộng đất đã hy sinh, bộ đội phục viên và đồng bào Miền Nam tập kết được chiếu cố trước.

Ở những nơi nhiều đất mà có ít người xin đất, thì có thể nhường bớt đất cho những xã bên cạnh.

b) Người được giao đất phải sử dụng đất, không được bán hoặc cho thuê lại. Một năm sau, nếu đất đã giao còn bị bỏ hoang hoặc bỏ hóa, thì sẽ bị thu lại để giao cho người khác.

Điều 3. Đối với những đất bãi đã được trồng cói mà trong cải cách ruộng đất đã chia cho nông dân để thu hoa lợi hàng năm, nay cần dựa vào điều 1 và điều 2 của nghị định này mà điều chỉnh lại trên nguyên tắc ưu tiên giao cho người đã được chia, và được sử dụng trong thời hạn từ mười đến mười lăm năm.

Điều 4. Những đất công bỏ hoang hay bỏ hóa nay dùng để trông cói, những đất trước đã có trồng cói nay trồng lại, sẽ được miễn thuế nông nghiệp từ một đến năm năm kể từ năm bắt đầu trồng, tùy theo công việc khai phá hoặc làm đất phí tổn nhiều hay ít. Việc định những trường hợp và thời gian được miễn thuế do Ủy ban Hành chính tỉnh xét và đề nghị, Bộ Tài chính quyết định.

Nếu cói được trồng nhiều trong một vùng nhất định, thì sẽ coi như một sản vật đặt biệt để tính thuế như đã quy định trong điều lệ thuế nông nghiệp. Việc định những vùng thu thuế cói theo sản vật đặc biệt do Ủy ban Hành chính tỉnh đề nghị, Ủy ban Hành chính khu quyết định.

Điều 5. Các Ông Bộ trưởng Bộ Nông lâm, Bộ Tài chính và Ủy Ban Hành chính các khu, tỉnh chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

 

 

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
 
 
 

Phạm Văn Đồng