Nghị định 374-TTg năm 1959 sửa đổi điều 11 và điều 20 của Điều lệ thuế nông nghiệp vùng đã cải cách ruộng đất do Thủ Tướng ban hành

Số hiệu 374-TTg
Ngày ban hành 15/10/1959
Ngày có hiệu lực 30/10/1959
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Phủ Thủ tướng
Người ký Phạm Hùng
Lĩnh vực Thuế - Phí - Lệ Phí,Bất động sản

PHỦ THỦ TƯỚNG
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 374-TTg

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 1959 

 

NGHỊ ĐỊNH

SỬA ĐỔI ĐIỀU 11 VÀ ĐIỀU 20 CỦA ĐIỀU LỆ THUẾ NÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÃ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT BAN HÀNH NGÀY 24-03-1956

 THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ điều lệ thuế nông nghiệp áp dụng ở những nơi đã cải cách ruộng đất ban hành ngày 24 tháng 03 năm 1956 và những văn bản sửa đổi hoặc bổ sung điều lệ đó;
Theo đề nghị của ông Bộ Tài chính;
Căn cứ Nghị quyết của hội nghị Thường vụ Hội đồng Chính phủ.

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. – Nay sửa đổi điều 11 và điều 20 trong điều lệ thuế nông nghiệp vùng đã cải cách ruộng đất như sau:

Điều 11 mới: “Đối với những loại cây lưu niên, có tính chất sản vật đặc biệt của từng địa phương, thì hoa lợi không gộp vào hoa lợi ruộng đất để tính thuế theo biểu chung, mà tính riêng, thuế thu từ 7% đến 12% số hoa lợi thực thu. Ủy ban Hành chính khu, thành phố, tỉnh căn cứ vào chủ trương của địa phương đối với từng loại cây mà quy định thuế suất cụ thể, sau khi được Bộ Tài chính đồng ý, nếu đối với một loại cây nào, cần phải tăng thuế suất trên 12% hay hạ thuế suất dưới 7% thì phải được Thủ tướng Chính phủ chuẩn y.

Việc quy định vùng nào có sản vật đặc biệt do Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh quyết định.

Ngoài những vùng đã quy định là có sản vật đặc biệt, thì đất trồng những loại cây trên vẫn tính sản lượng thường niên theo ruộng đất chung quanh và gộp với hoa lợi ruộng đất để tính thuế theo thuế biểu chung”.

Điều 20 mới: “Đối với các ruộng đất dự trữ (ruộng đất dành đón thương binh, dành cho những công trình kiến thiết v.v…) ruộng vắng chủ, do chính quyền và nông hội giao cho nhân dân cày cấy, thì hoa lợi ruộng đất đó không gộp vào hoa lợi ruộng đất sẵn có của nông bộ nhận ruộng để tính thuế, mà nộp thuế theo thuế suất bình quân của mỗi xã.

Nếu các đoàn thể, tổ đổi công nhận cày cấy các loại ruộng đất nói trên cũng nộp thuế theo thuế suất bình quân của xã.

Nếu chính quyền có thu phần hoa lợi vào các loại ruộng đất nói trên thì nộp thuế 10% phần hoa lợi thu được, người cày cấy chỉ phải nộp thuế vào phần hoa lợi còn lại.

Đối với những vùng ruộng đất nhiều, dân số ít xét cần khuyến khích cày cấy hết diện tích, Ủy ban Hành chính khu, thành phố, tỉnh có thể quyết định giảm 25% đến 50% số thuế về phần ruộng đất dự trữ đất vắng chủ”.

Điều 2. – Đối với Miền núi, Bộ Tài chính cùng với Ủy ban Hành chính khu, tỉnh miền núi quy định những biện pháp thích hợp để áp dụng nghị định này.

Điều 3. – Ông Bộ trưởng Bộ Tài chính và các Ủy ban Hành chính khu, thành phố, tỉnh chịu trách nhiệm thi hành nghị định này.

 

 

K.T. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG

 
 


Phạm Hùng