CHÍNH
PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
35-CP
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 6 năm 1996
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 35-CP NGÀY 14 THÁNG 6 NĂM 1996 QUY ĐỊNH CHI
TIẾT VIỆC THI HÀNH PHÁP LỆNH VỀ DÂN QUÂN TỰ VỆ
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Pháp lệnh về dân quân tự vệ ngày 9 tháng 01 năm 1996;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.-
Việc đăng ký quản lý và tuyển chọn vào dân quân tự vệ quy định như sau:
1. Hàng năm từ ngày 01 đến ngày
15 tháng 4, công dân trong độ tuổi theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh về dân
quân tự vệ, phải được đăng ký vào danh sách để quản lý tại xã, phường, thị trấn
nơi thường trú, hoặc nơi đang công tác, học tập, lao động.
2. Tiêu chuẩn tuyển chọn công
dân vào lực lượng dân quân tự vệ:
- Có lý lịch rõ ràng,
- Có phẩm chất chính trị tốt,
trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nghiêm chỉnh chấp hành các
chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
- Có đủ sức khoẻ.
3. Uỷ ban nhân dân các cấp, Giám
đốc các doanh nghiệp, Thủ trưởng các cơ quan hành chính sự nghiệp có trách nhiệm
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ việc đăng ký quản lý công dân
trong độ tuổi quy định tại Điều 2, Pháp lệnh dân quân tự vệ, theo hướng dẫn của
Bộ Quốc phòng.
4. Cơ quan quân sự ở các cấp có
trách nhiệm tham mưu giúp chính quyền cùng cấp, tổ chức thực hiện việc đăng ký,
tuyển chọn công dân vào lực lượng dân quân tự vệ. Việc công nhận công dân vào
dân quân tự vệ do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, giám đốc các
doanh nghiệp, Thủ trưởng các cơ quan hành chính sự nghiệp quyết định.
Điều 2.-
Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn, phải nắm chắc số
lượng, chất lượng dân quân hiện có; số lượng, chất lượng công dân được đăng ký
và kết quả tuyển chọn; tình hình thực tiễn, yêu cầu nhiệm vụ của cơ sở để giúp
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn tổ chức thực hiện việc luân phiên phục vụ
trong lực lượng dân quân theo thời hạn 4 năm; bảo đảm cho dân quân tự vệ có chất
lượng cao, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu; tạo nguồn dự bị để
mở rộng lực lượng khi cần thiết và bảo đảm công bằng xã hội.
Điều 3.-
Việc tổ chức tự vệ trong doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo
khoản 2 Điều 6 Pháp lệnh, quy định như sau:
1. Các doanh nghiệp có tổ chức Đảng,
phải tổ chức lực lượng tự vệ.
2. Những doanh nghiệp chưa có tổ
chức Đảng phải tổ chức lực lượng tự vệ khi cơ quan quân sự tỉnh, thành phố yêu
cầu, hoặc khi doanh nghiệp đề nghị và được cơ quan quân sự tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chấp nhận. Lực lượng tự vệ ở các doanh nghiệp này do cơ quan
quân sự, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chỉ huy và đặt dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của cấp uỷ đảng của cấp đó.
3. Những doanh nghiệp chưa tổ chức
tự vệ, thì giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm tạo điều kiện và bảo đảm kinh
phí cho công dân trong độ tuổi thuộc cơ sở mình tham gia dân quân tự vệ ở địa
phương nơi họ thường trú.
Điều 4.-
Quy mô, cơ cấu tổ chức lực lượng dân quân tự vệ thực hiện theo khoản 2 Điều 11
Pháp lệnh, quy định như sau:
1. Cơ cấu tổ chức lực lượng dân
quân tự vệ gồm có phân đội bộ binh và phân đội binh chủng chuyên môn cần thiết,
có lực lượng chiến đấu tại chỗ, có lực lượng cơ động.
Đối với các cơ quan Nhà nước,
đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội chỉ tổ chức lực lượng
chiến đấu tại chỗ để bảo vệ cơ quan, đơn vị mình.
2. Quy mô tổ chức lực lượng dân
quân tự vệ:
a) ở các xã, phường, thị trấn đồng
bằng, ven biển, trung du, quy mô tổ chức ở làng, xóm, thôn ấp, cụm dân cư mỗi
nơi tổ chức từ tiểu đội đến trung đội; các thôn, ấp lớn và có điều kiện có thể
tổ chức đến đại đội.
b) Các xã phường, thị trấn ở
vùng núi, vùng cao, vùng sâu, mỗi bản, thôn quy mô tổ chức là tổ, tiểu đội hoặc
trung đội.
c) Đối với cơ quan Nhà nước, đơn
vị hành chính sự nghiệp, lấy đơn vị học tập, công tác, sản xuất để tổ chức, quy
mô tổ chức là tiểu đội, trung đội.
d) ở doanh nghiệp Nhà nước lấy
đơn vị sản xuất tổ đội, phân xưởng, quy mô tổ chức là tiểu đội, trung đội, đại
đội; nơi có điều kiện cả doanh nghiệp có thể tổ chức đến tiểu đoàn.
e) ở doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác, quy mô tổ chức từ tổ, tiểu đội đến trung đội.
g) ở các tổ chức chính trị - xã
hội quy mô tổ chức là tiểu đội, trung đội.
Điều 5.-
1. Ban chỉ
huy quân sự ở xã, phường, thị trấn và ở các đơn vị doanh nghiệp Nhà nước, có
trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân, giám đốc doanh nghiệp, chỉ đạo các mặt công
tác quốc phòng, trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy lực lượng dân quân tự vệ trong xây dựng
và hoạt động tác chiến trị an ở cơ sở.
2. Chỉ huy quân sự xã, phường,
thị trấn và ở các doanh nghiệp Nhà nước phải là người có phẩm chất tốt, có tinh
thần trách nhiệm, có năng lực thực hiện nhiệm vụ ở cương vị được giao và đã qua
rèn luyện thử thác trong chiến đấu, sản xuất, công tác.
3. Ở các xã, phường, thị trấn
biên giới, ven biển, hải đảo được bố trí phó chỉ huy trưởng quân sự chuyên
trách.
- Ở các xã, phường, thị trấn trọng
điểm trong nội địa; các xã thuộc vùng sâu, vùng xa, xét nơi nào thật cần thiết
thì sau khi thống nhất với tư lệnh quân khu, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định cụ thể xã, phường, thị trấn đó có
phó chỉ huy trưởng quân sự là chuyên trách. Các xã, phường, thị trấn còn lại bố
trí phó chỉ huy trưởng quân sự bán chuyên trách.
4. Việc bổ nhiệm Phó chỉ huy
quân sự chuyên trách hoặc bán chuyên trách ở xã, phường, thị trấn do Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định.
Điều 6.-
Vũ khí, trang bị của lực lượng dân quân tự vệ, từ bất cứ nguồn nào đều phải được
đăng ký, quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích theo Điều 14 Pháp lệnh về dân
quân tự vệ. Bộ Quốc phòng quy định chế độ đăng lý, quản lý sử dụng vũ khí trang
bị của lực lượng dân quân tự vệ.
Điều 7.-
1. Thời
gian học tập chính trị, huấn lượng quân sự hàng năm cho cán bộ, chiến sĩ dân
quân tự vệ thực hiện theo Điều 16 Pháp lệnh về dân quân tự vệ.
Khi có yêu cầu cần thiết hoặc
khi có chiến tranh, thời gian huấn luyện cho các đối tượng dân quân tự vệ, hàng
năm có thể kéo dài gấp đôi so với thời gian quy định.
2. Các cấp, các ngành có trách
nhiệm chỉ đạo việc huấn luyện quân sự, học tập chính trị cho dân quân tự vệ bảo
đảm đúng nội dung, chương trình do Bộ Quốc phòng quy định.
Điều 8.-
1. Việc sử
dụng lực lượng dân quân tự vệ phối hợp với các lực lượng vũ trang khác làm nhiệm
vụ tác chiến trị an, phải có kế hoạch bảo đảm thống nhất, đúng chức năng nhiệm
vụ của từng lực lượng.
2. ở những địa bàn trọng điểm
biên giới, ven biển, hải đảo và trong nội địa, có yêu cầu sẵn sàng chiến đấu
cao, được tổ chức lực lượng dân quân tự vệ luân phiên thường trực chiến đấu
theo quy định của Bộ Quốc phòng.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo tổ chức và bảo đảm các mặt về đời sống,
sinh hoạt, học tập cho lực lượng dân quân tự vệ luân phiên thường trực chiến đấu.
Điều 9.-
Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội Biên phòng đóng quân trên địa bàn
nào, đều có trách nhiệm quan hệ với cơ quan quân sự địa phương, tham gia xây dựng,
huấn luyện dân quân tự về và phối hợp với dân quân tự vệ trong hoạt động tác
chiến trị an.
Điều 10.-
Phó chỉ huy trưởng chuyên trách và bán chuyên trách Ban chỉ huy quân sự xã, phường,
thị trấn được hưởng khoản phụ cấp hàng tháng theo quy định tại Điều 26 của Pháp
lệnh về dân quân tự vệ. Mức phụ cấp để tính thực hiện theo điểm d, khoản 1, Điều
2 Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ; thời điểm được hưởng khoản phụ
cấp hàng tháng kể từ khi được cấp có thẩm quyền quy định tại khoản 4, Điều 5
Nghị định này, Quyết định bổ nhiệm chính thức.
- Cán bộ chỉ huy quân sự xã, phường,
thị trấn khi đi huấn luyện tại trường quân sự tỉnh thì gia đình được trợ cấp, cứ
mỗi ngày bằng hệ số 0,1 mức lương hàng tháng tối thiểu.
Điều 11.-
1. Cán bộ,
chiến sĩ dân quân trong thời gian làm nhiệm vụ quy định tại điểm a, khoản 3, Điều
26 Pháp lệnh về dân quân tự vệ, cứ mỗi ngày làm nhiệm vụ được hưởng một khoản
tiền tương đương giá trị ngày công lao động ở từng địa phương, do Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân huyện, quận quy định.
2. Cán bộ, chiến sĩ dân quân tự
vệ trong thời gian làm nhiệm vụ bị tai nạn, ốm đau hoặc chết quy định tại điểm
b, khoản 3 Điều 26 Pháp lệnh được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội như đối với
công nhân, viên chức Nhà nước theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng hướng
dẫn chi tiết việc thi hành các chế độ này.
- Cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ
bị thương hoặc hy sinh khi làm các nhiệm vụ quy định tại điểm c, khoản 3 Điều
26 Pháp lệnh nếu được xác nhận là thương binh, liệt sĩ thì bản thân và gia đình
được hưởng các chế độ chính sách ưu đãi theo Nghị định 28/CP ngày 29/4/1995 của
Chính phủ.
3. Dân quân tự
vệ làm nhiệm vụ luân phiên thường trực chiến đấu theo quy định tại khoản 2, Điều
8 Nghị định này, từ 6 tháng trở lên được cấp một bộ quần áo, một đôi giày vải,
một mũ cứng.
Điều 12.-
Kinh phí hàng năm cho xây dựng, hoạt động của dân quân tự vệ; phụ cấp cán bộ được
thực hiện theo Điều 27, Pháp lệnh về dân quân tự vệ và nằm trong ngân sách của
địa phương. Bộ Tài chính và Bộ Quốc phòng có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể, bảo
đảm chặt chẽ để hạn chế tăng số chuyên trách đối với các xã trọng điểm nội địa,
các xã, vùng sâu, vùng xa.
Điều 13.-
Tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc tổ chức xây dựng, hoạt động của lực
lượng dân quân tự vệ được khen thưởng theo các hình thức và chế độ hiện hành của
Nhà nước.
Cơ quan quân sự các cấp có trách
nhiệm phối hợp với các cơ quan có liên quan, giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng
cấp xét duyệt quyết định khen thưởng, hoặc đề nghị lên cấp trên khen thưởng, bảo
đảm kịp thời chính xác.
Điều 14.-
Để phát huy truyền thống và tăng cường xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hàng năm Uỷ ban nhân dân
các địa phương, các Bộ, ngành và cơ quan quân sự các cấp có trách nhiệm tổ chức
thiết thực, trọng thể kỷ niệm ngày 28 tháng 3, ngày truyền thống dân quân tự vệ.
Điều 15.-
Tổ chức, cá nhân có hành vi trốn tránh, cản trở việc tổ chức, xây dựng, hoạt động
của lực lượng dân quân tự vệ, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử
phạt hành chính theo quy định tại Nghị định 24/CP ngày 18 tháng 4 năm 1996 của
Chính phủ, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 16.-
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày ký. Những quy định trước đây trái với
Nghị định này đều bãi bỏ.
Điều 17.-
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có trách nhiệm phối hợp với các Bộ có liên quan hướng dẫn
thực hiện Nghị định này.
Điều 18.-
Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính
phủ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách
nhiệm thi hành Nghị định này.