Nghị định 275-CP năm 1977 về việc tổ chức bộ máy quản lý nông nghiệp do Hội đồng Chính phủ ban hành

Số hiệu 275-CP
Ngày ban hành 08/10/1977
Ngày có hiệu lực 23/10/1977
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Chính phủ
Người ký Phạm Văn Đồng
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 275-CP

Hà Nội, ngày 08 tháng 10 năm 1977 

 

NGHỊ ĐỊNH

VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NÔNG NGHIỆP

Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI, kỳ họp thứ nhất;
Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14-7-1960;
Căn cứ vào Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Chính phủ ban hành kèm theo nghị định số 172-CP ngày 1-11-1973 và bản quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền Nhà nước cấp tỉnh trong lĩnh vực quản lý kinh tế, ban hành kèm theo nghị định số 24-CP ngày 2-2-1976 của Hội đồng Chính phủ;
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp hội nghị Thường vụ của Hội đồng Chính phủ ngày 26-8-1977;
Để cải tiến một bước tổ chức bộ máy quản lý nông nghiệp theo tinh thần nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IV về nhiệm vụ phát triển nông nghiệp trong thời gian tới.

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. – Bộ nông nghiệp là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý ngành nông nghiệp trong phạm vi cả nước theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc để thỏa mãn nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và sản phẩm cho xuất khẩu, xây dựng một nền nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa với một nền khoa học, kỹ thuật tiên tiến.

Bộ có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm để thực hiện sự quản lý Nhà nước đối với toàn ngành nông nghiệp trong cả nước, kết hợp với việc tăng cường sự chỉ đạo, giúp đỡ và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp tỉnh, huyện và đơn vị cơ sở trên nguyên tắc bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất của trung ương.

Điều 2. – Bộ Nông nghiệp có những nhiệm vụ và quyền hạn chính như sau:

1. Nghiên cứu, xây dựng quy hoạch và kế hoạch dài hạn và hàng năm của toàn ngành nông nghiệp trong phạm vi cả nước, từ việc xây dựng số kiểm tra để thống nhất với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, đến việc đề ra các chính sách, các chủ trương kỹ thuật nhằm bảo đảm tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra toàn ngành thực hiện các quy hoạch và kế hoạch cấy sau khi được Hội đồng Chính phủ thông qua.

2. Nghiên cứu trình Hội đồng Chính phủ ban hành hoặc Bộ ban hành trong phạm vi quyền hạn được giao các chính sách, chế đố, thể lệ về nông nghiệp; tổ chức chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ, thể lệ ấy.

3. Tổ chức và chỉ đạo mọi công tác sản xuất nông nghiệp, chỉ đạo kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, chế biết nông sản, cải tiến công cụ, về cơ giới hóa nông nghiệp; quản lý việc cung ứng vật tư và thiết bị nông nghiệp theo sự phân công của Nhà nước; quản lý thống nhất các công tác sự nghiệp trong ngành nông nghiệp.

4. Trên cơ sở tổ chức lại nền nông nghiệp trong phạm vi cả nước và trên địa bàn huyện, tổ chức, chỉ đạo việc hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với các hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở miền Nam; chỉ đạo việc xây dựng, củng cố và phát triển các nông trường quốc doanh, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp trên địa bàn cả nước.

5. Quản lý thống nhất việc sử dụng, cải tạo đồng ruộng, đất đai trong nông nghiệp; quản lý thống nhất việc khai thác các vùng đất mới để phát triển nông nghiệp theo quy hoạch của Nhà nước. Nghiên cứu kế hoạch và biện pháp tổ chức, quản lý và sử dụng hợp lý lao động trong nông nghiệp.

6. Tổ chức và chỉ đạo công tác nghiên cứu và phát triển khoa học, kỹ thuật nông nghiệp, bảo đảm việc áp dụng nhanh chóng tiến bộ kỹ thuật và các kết quả nghiên cứu khoa học, kỹ thuật vào sản xuất thí điểm và sản xuất đại trà.

7. Tổ chức việc hợp tác quốc tế về kinh tế và về khoa học, kỹ thuật nông nghiệp theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và những quy định của Nhà nước về quan hệ với nước ngoài.

8. Tổ chức thực hiện việc tăng cuờng và cải tiến cơ cấu tổ chức và công tác quản lý toàn ngành nông nghiệp; nghiên cứu đề nghị Hội đồng Chính phủ quy định tổ chức hệ thống bộ máy quản lý nông nghiệp; hướng dẫn địa phương xây dựng bộ máy quản lý nông nghiệp ở địa phương; chỉ đạo việc bồi dưỡng, đào tạo, sắp xếp, điều động và thực hiện các chính sách, chế độ đãi ngộ với cán bộ, công nhân, viên chức trong toàn ngành nông nghiệp.

9. Quản lý tổ chức, cán bộ, biên chế, tài sản, tài chính của Bộ theo chế độ chung của Nhà nước.

Điều 3. – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp chịu trách nhiêm trước Quốc hội và Hội đồng Chính phủ lãnh đạo toàn bộ công tác của Bộ như điều 1 và điều 2 đã quy định. Các thứ trưởng Bộ Nông nghiệp giúp Bộ trưởng trong việc lãnh đạo chung và có thể được Bộ trưởng ủy nhiệm chỉ đạo từng phần công tác của Bộ.

Trong phạm vi quyền hạn của mình, để thi hành pháp luật và các nghị định, nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp ra những thông tư, quyết định và kiểm tra các ngành, các cấp thi hành những thông tư, quyết định ấy; sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của các cơ quan chuyên môn cấp dưới thuộc ngành mình; đề nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng có liên quan đến công tác nông nghiệp của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ hay của Ủy ban nhân dân địa phương.

Điều 4. – Cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ Nông nghiệp gồm có:

A. Các tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh.

1. Các Tổng công ty, Công ty hoặc Liên hiệp các xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp đối với những cây, con đang phát triển, chuyên môn hóa cao, sản xuất trên những địa bàn tập trung và có quy mô chế biến ngày càng lớn. Trước mắt, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của Bộ gồm có:

- Tổng công ty cao su, thống nhất quản lý ngành cao su, kể cả các nông trường trồng cao su, các nhà máy và cơ sở sơ chế cao su;

- Công ty bông, thống nhất quản lý ngành trồng bông, kể cả các nông trường và hợp tác xã nông nghiệp trồng bông, các nhà máy sơ chế bông ở các vùng chuyên canh bông;

- Công ty cà phê, ca cao, thống nhất quản lý ngành trồng cà phê, ca cao, kể cả các nông trường trồng cà phê, ca cao, các nhà máy chế biến cà phê, ca cao;

- Công ty mía, đường, thống nhất quản lý các nông trường trồng mía, các nhà máy đường ở các vùng kinh tế mới chuyên canh mía;

- Công ty trâu, bò sữa và sữa, thống nhất quản lý các trung tâm giống trâu, bò sữa, các nông trường chăn nuôi trâu, bò sữa, các nhà máy chế biến sữa gắn với cơ sở chăn nuôi;

- Công ty giống gà và gà công nghiệp, thống nhất quản lý các trung tâm giống gà, các xí nghiệp nuôi gà công nghiệp thịt và trứng;

- Các công ty giống cây, giống con và công ty chuyên doanh các loại sản phẩm khác thuộc diện quản lý của Bộ.

[...]