NGHỊ ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 170-HĐBT NGÀY
14-11-1988 BAN HÀNH BẢN QUY ĐỊNH VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI KINH
TẾ CÁ THỂ, XÍ NGHIỆP TƯ DOANH TRONG NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Luật Tổ
chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4-7-1981;
Để thể chế hoá các chủ trương mới đã nêu trong Nghị quyết số 10-NQ/TƯ ngày
5-4-1988 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng về vấn đề sử dụng và
khuyến khích các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh trong nông, lâm, ngư
nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.
Ban hành kèm theo Nghị định này bản Quy định về chính sách đối với kinh tế cá
thể, xí nghiệp tư doanh trong nông, lâm, ngư nghiệp.
Điều 2.
Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc
Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực
thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Điều 3.
Nghị định này thi hành kể từ ngày ban hành.
QUY ĐỊNH
VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI KINH TẾ CÁ THỂ, XÍ NGHIỆP
TƯ DOANH TRONG NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP
(Ban hành kèm theo Nghị định số 170-HĐBT ngày 14-11-1988 của Hội đồng Bộ trưởng)
Thực hiện Nghị quyết của Bộ
Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp ban hành ngày 5-4-1988, Hội đồng
Bộ trưởng quy định chính sách đối với hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh
trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp như sau:
Phần
1:
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều
1.
Nhà nước
công nhận sự tồn tại và tác dụng tích cực của các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp
tư doanh nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp) trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khuyến khích các thành phần kinh tế này bỏ vốn, sức
lao động, kỹ thuật, khả năng quản lý vào phát triển mạnh mẽ nông, ngư nghiệp,
góp phần xây dựng đất nước.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi
cho các thành phần kinh tế này phát triển sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực
trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, khai thác lâm sản, nuôi trồng, khai thác thuỷ
sản, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, kinh doanh dịch vụ nông nghiệp và mở mang
ngành nghề không hạn chế quy mô kinh doanh (các hộ cá thể, xí nghiệp tư doanh
làm tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, làm dịch vụ
sản xuất thực hiện các chính sách quy định trong Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị
và Nghị định số 27-HĐBT ngày 9-3-1988 của Hội đồng Bộ trưởng).
Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền
sở hữu, quyền thừa kế, bán nhượng tài sản và thu nhập hợp pháp của các hộ kinh
tế cá thể, xí nghiệp tư doanh, thừa nhận tư cách pháp nhân và địa vị pháp lý
bình đẳng của họ trước pháp luật. Các quyền lợi về xã hội của người làm kinh tế
cá thể, xí nghiệp tư doanh và con họ được pháp luật bảo hộ.
Điều
2.
Các hộ
kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh trong nông, lâm, ngư nghiệp có tư liệu sản
xuất, có vốn và kỹ thuật thuộc quyền sở hữu của mình, được Nhà nước giao quyền
sử dụng đất đai theo Luật Đất đai để tổ chức sản xuất kinh doanh. Các đơn vị
kinh tế này được tổ chức dưới các hình thức sau đây:
Hộ kinh tế cá thể làm kinh tế
nông, lâm nghiệp hay nuôi trồng thuỷ sản tự tổ chức sản xuất kinh doanh, có thể
thuê thêm lao động thời vụ.
Tư liệu sản xuất, vốn và kỹ thuật
thuộc sở hữu của người đứng ra kinh doanh.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thuế
với Nhà nước, phần thu nhập còn lại thuộc sở hữu của hộ kinh tế cá thể.
Xí nghiệp tư doanh, là đơn vị
kinh doanh do một hoặc nhiều hộ tư nhân cùng góp tư liệu sản xuất, vốn và kỹ
thuật để tổ chức sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức như xí nghiệp tư
doanh hay công ty tư doanh với quy mô không hạn chế.
Các xí nghiệp này được thuê lao
động (cả lao động nghiệp vụ, lao động kỹ thuật) theo yêu cầu phát triển sản xuất
kinh doanh của mình, hoặc nhận đấu thầu của các đơn vị khác để kinh doanh.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thuế
với Nhà nước, phần thu nhập còn lại thuộc sở hữu của chủ xí nghiệp.
Điều
3. Chủ các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh phải nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế,
các khoản nộp vào quỹ xã hội chung, thực hiện Pháp lệnh kế toán thống kê, Luật
lệ về thuế lao động, bảo vệ rừng và đất đai, về bảo vệ môi trường, các hợp đồng
kinh tế đã ký kết.
Điều 4.
Các xí nghiệp tư doanh phải đăng ký kinh doanh mới được phép hoạt động và phải
hoạt động ngành nghề đã đăng ký, đồng thời được tổ chức kinh doanh tổng hợp để
phát huy mọi năng lực sản xuất, tạo nhiều sản phẩm cho xã hội; khi cần thay đổi
phải xin điều chỉnh đăng ký kinh doanh. Việc cấp đăng ký kinh doanh cho các xí
nghiệp tư doanh do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố xét quyết định.
Điều 5
Chính quyền các cấp có nhiệm vụ giám sát các đơn vị này chấp hành đúng pháp luật
và những quy định của Nhà nước, không được can thiệp và gây cản trở các hoạt động
sản xuất, kinh doanh hợp pháp, không được tự quy định thêm các khoản thu ngoài
quy định của Nhà nước.
Phần 2:
CÁC CHÍNH SÁCH VỀ ĐẤT
ĐAI, MẶT NƯỚC, VẬT TƯ, TIÊU THỤ SẢN PHẨM, TÀI CHÍNH VÀ TÍN DỤNG
Điều
6.
Mọi công
dân Việt Nam có sức lao động, tư liệu sản xuất, tiền vốn và kỹ thuật đều có quyền
đề nghị và được Nhà nước xét để giao cho sử dụng một diện tích đất đai, mặt nước
(gọi chung là đất đai) nhất định để tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Hộ có nhu cầu phải có đơn đề
nghị gửi đến Uỷ ban Nhân dân các cấp có thẩm quyền xem xét theo Luật Đất đai.
- Căn cứ vào điều kiện cụ thể về
đất đai của địa phương, Uỷ ban Nhân dân các cấp được uỷ quyền cấp đất theo Luật
Đất đai xem xét quyết định, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai theo
nguyên tắc:
Đối với đất trống, đồi núi trọc
để trồng rừng và các loại cây lâu năm, Nhà nước giao cho mỗi hộ cá thể, xí nghiệp
tư doanh một diện tích không hạn chế tuỳ thuộc vào khả năng sử dụng; thời gian
sử dụng được giao ổn định ít nhất từ 30 đến 50 năm, khi hết thời hạn có thể xem
xét để gia hạn thêm.
Đất trồng cây công nghiệp ngắn
ngày, cây đặc sản, đất dùng cho sản xuất lương thực, thực phẩm (kể cả đồi trọc,
nếu có) đất làm vườn, rẫy, đất cho chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản giao ổn định
khoảng 15 năm.
Đối với rừng tự nhiên, tuỳ theo
điều kiện cụ thể từng nơi và hiện trạng của rừng Nhà nước giao cho các thành phần
kinh tế này tổ chức sản xuất kinh doanh, chăm sóc bảo vệ dưới nhiều hình thức
khác nhau như giao khoán, đấu thầu... trên cơ sở xác định đúng giá trị ban đầu
của rừng do hai bên thoả thuận. Người nhận rừng có trách nhiệm bảo đảm tăng
không ngừng và cải thiện cơ cấu các loại cây của vốn rừng đó.
Đối với diện tích mặt nước lớn
có điều kiện đưa vào nuôi trồng thuỷ sản, Nhà nước tổ chức giao khoán hoặc đấu
thầu cho các hộ kinh tế cá thể hoặc xí nghiệp tư doanh sản xuất kinh doanh.
Hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư
doanh được phép mua lại cơ sở vật chất kỹ thuật hoặc nhận thầu một bộ phận hay
toàn bộ xí nghiệp quốc doanh nông, lâm, ngư nghiệp khi xí nghiệp đó giải thể từng
phần hay toàn bộ.
Điều
7. Các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh nhận đất đai, rừng và mặt nước
để sản xuất kinh doanh có nghĩa vụ:
Đưa hết diện tích đó vào sản xuất
kinh doanh hợp lý, thường xuyên bảo vệ và làm tăng độ phì của đất, làm giầu vốn
rừng, thực hiện đầy đủ các quy định của Luật Đất đai và các quy định của ngành
chuyên môn.
Các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp
tư doanh sử dụng đất đai, mặt nước sai với mục đích sử dụng hoặc sau 6 tháng vẫn
chưa đưa vào sản xuất (nếu không có lý do chính đáng) sẽ bị thu hồi, đồng thời
phải bồi thường thiệt hại gây ra và chịu phạt do không tôn trọng cam kết khi nhận
đất đai, mặt nước đó.
Trên đất đai, và mặt nước được
giao, các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh được quyền tự tổ chức sản xuất
kinh doanh theo phương hướng đã xác định; được chuyển quyền sử dụng đất đai
theo Luật đất đai; được nhượng bán cây lâu năm và các công trình phục cụ sản xuất
kinh doanh đã xây dựng trên đất đai đó khi không kinh doanh hoặc chuyển sang
làm việc khác, người được nhận đất đai để tiếp tục sản xuất kinh doanh phải
thanh toán các khoản trên cho người chủ kinh doanh đất cũ.
Trường hợp có yêu cầu đặc biệt cần
thu lại đất đai trước thời hạn giao khoán, Nhà nước hoặc chủ sử dụng mới có
trách nhiệm bồi thường thoả đáng cho chủ kinh doanh giá trị cây trồng, vật nuôi
còn lại chưa thể thu hoạch và chi phí, cơ sở vật chất đã xây dựng trên đất đai
đó theo chính sách chung của Nhà nước.
Điều
8.
Các hộ
kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh có quyền liên kết hoặc tự tổ chức khai thác
các nguồn vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu... để phục vụ sản xuất, theo pháp luật
của Nhà nước.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh khai thác và tận dụng
vật tư, nguyên liêu, nhiên liệu ở trong nước, coi đó là một hướng chính để phát
triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp.
Nhà nước dành một phần vật tư,
máy móc bán theo giá kinh doanh hoặc ký các hợp đồng kinh tế bán vật tư, mua sản
phẩm với các đơn vị kinh tế này trên nguyên tắc thoả thuận, bình đẳng, cùng có
lợi.
Các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp
tư doanh được phép mua vật tư và thiết bị lẻ trên thị trường hay tại các cửa
hàng của Nhà nước hoặc của các đơn vị kinh tế khác; được quyền liên kết, liên
doanh với các đơn vị quốc doanh, hay tập thể để phát triển sản xuất, hoặc nhận
làm gia công cho các tổ chức kinh tế đó; được quyền dùng vốn tự có ngoại tệ hoặc
vàng của mình để nhập thiết bị, vật tư, nguyên liệu về phục vụ sản xuất. Được
nhận các vật tư, thiết bị, ngoại tệ của thân nhân ở nước ngoài gửi về, không hạn
chế về số lượng, về lần gửi và có thể được hưởng chính sách thuế ưu đãi theo
quy định của Nhà nước.
Điều
9. Các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh có quyền tiêu thụ các sản phẩm
làm ra theo hợp đồng với các tổ chức kinh tế quốc doanh và tập thể, hoặc tự tổ
chức tiêu thụ.
Điều 10.
Nhà nước
khuyến khích hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh phát triển sản xuất hàng hoá
xuất khẩu.
Các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp
tư doanh được ký các hợp đồng với các tổ chức xuất khẩu ở trong nước để bán sản
phẩm xuất khẩu, được lựa chọn các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu của Nhà nước
để uỷ thác xuất khẩu sản phẩm của mình hay nhập vật tư theo các điều kiện thoả
thuận trong hợp đồng kinh tế và được hưởng quyền sử dụng ngoại tệ theo chế độ của
Nhà nước.
Điều
11.
Nhà nước
khuyến khích các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh tự bỏ vốn, vật tư, lao động
vào phát triển sản xuất.
Nếu vốn tự có chưa đủ để phát
triển sản xuất, kinh doanh, hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh được vay vốn
của Ngân hàng Nhà nước. Các xí nghiệp tư doanh được phép gọi cổ phần hoặc vốn của
các đơn vị kinh tế, cá nhân trong nước; được vay tiền của thân nhân ở nước ngoài
gửi qua Ngân hàng ngoại thương để phát triển sản xuất, kinh doanh. Được phép trả
khoản vay đó bằng ngoại tệ thuộc quyền sử dụng hoặc bằng hàng hoá được phép xuất
khẩu.
Các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp
tư doanh được lựa chọn Ngân hàng để mở tài khoản.
Điều
12.
Các hộ
kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh trong nông, lâm, ngư nghiệp có nghĩa vụ nộp
các loại theo Luật định.
Các đơn vị này làm ngành nghề, dịch
vụ khác ngoài nông nghiệp, phải đóng thuế theo chính sách quy định cụ thể cho từng
lĩnh vực sản xuất kinh doanh đó.
Trường hợp giải thể xí nghiệp hoặc
chuyển nhượng quyền sự dụng hay bán tài sản, trước hết phải trả nợ Ngân hàng và
các khoản còn thiếu của Nhà nước nếu có.
Điều
13. Các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh trong nông nghiệp có quyền hợp
tác, liên kết với các cơ quan nghiên cứu khoa học, các trường đại học, trung học
dưới nhiều hình thức để đưa nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng thoả thuận đôi bên; được phép mua các công nghệ
sản xuất mới và thiết kế kỹ thuật phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Điều 14.
Nhà nước
khuyến khích các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh trong nông nghiệp nghiên
cứu, tìm tòi đổi mới công nghệ sản xuất, cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm
v.v... Các phát minh, sáng chế này nếu đăng ký với cơ quan chức năng của Nhà nước
sẽ được giữ bản quyền và được Nhà nước xét khen thưởng theo quy chế chung. Nhà
nước ban hành chính sách khen thưởng đối với những hộ nông dân và người lao động
có nhiều sáng kiến và kinh doanh giỏi trong sản xuất nông nghiệp.
Các học sinh tốt nghiệp đại học,
trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật được khuyến khích vào làm việc
trong các xí nghiệp tư doanh và vẫn được bồi dưỡng học tập nâng cao trình độ
theo chế độ chung của Nhà nước.
Điều
15.
Việc thuê
lao động phải trên cơ sở hợp đồng giữa chủ và người lao động làm thuê và tuân
thủ các điều khoản của pháp luật về lao động.
Lao động làm thuê và chủ thuê
lao động có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các điều khoản quy định trong hợp đồng,
ai vi phạm hợp đồng đều phải xét xử theo pháp luật và hợp đồng kinh tế của Nhà
nước.
Phần 3:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều
16. Quy định này được thi hành thống nhất trong cả nước. Mọi
điều quy định trước đây trái với quy định này đều bị bãi bỏ.
Điều 17.
Các Bộ, Uỷ
ban Nhà nước, cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng có liên quan, Uỷ ban Nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào quy định này để cụ thể
hoá thành các quy chế, chế độ thuộc phạm vi phụ trách và tổ chức chỉ đạo thực
hiện.
Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực
phẩm, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Thuỷ sản, Tổng cục Cao su, Tổng cục Quản lý ruộng đất
có những quy định cụ thể cho từng đối tượng.
Quy định này phải được phổ biến
rộng rãi trong toàn dân.