Nghị định 112-HĐBT năm 1984 về việc thu thủy lợi phí do Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Số hiệu 112-HĐBT
Ngày ban hành 25/08/1984
Ngày có hiệu lực 09/09/1984
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Tố Hữu
Lĩnh vực Thuế - Phí - Lệ Phí

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 112-HĐBT

Hà Nội, ngày 25 tháng 8 năm 1984

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG 112-HĐBT NGÀY 25 THÁNG 8 NĂM 1984 VỀ VIỆC THU THUỶ LỢI PHÍ

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG

Để bảo đảm duy trì và khai thác tốt các công trình thuỷ nông bằng sự đóng góp công bằng, hợp lý của những diện tích được hưởng lợi về nước;
Để tạo điều kiện cho các xí nghiệp quản lý và khai thác thuỷ nông (dưới đây gọi tắt là xí nghiệp thủy nông) thực hiện hạch toán kinh tế, nâng cao hiệu quả phục vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu tưới tiêu của sản xuất nông nghiệp.
Để đề cao trách nhiệm của các cấp chính quyền và nhân dân trong việc bảo vệ, quản lý, sử dụng tốt các công trình thuỷ nông;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thuỷ lợi, Bộ trưởng Bộ Tài chính,

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. Mọi tổ chức và cá nhân được hưởng lợi về tưới nước, tiêu nước hoặc các dịch vụ khác từ các công trình thuỷ nông do Nhà nước quản lý đều phải trả thuỷ lợi phí cho các xí nghiệp thuỷ nông.

Điều 2. Thuỷ lợi phí gồm các khoản:

a) Khấu hao cơ bản, khấu hao sửa chữa lớn và chi phí sửa chữa thường xuyên các máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng, phương tiện vận tải và các phương tiện khác dùng vào việc duy trì, khai thác và quản lý các công trình thuỷ nông, không kể khấu hao cơ bản các máy bơm lớn;

b) Chi phí sửa chữa lớn, tu bổ, sửa chữa thường xuyên các công trình xây dựng đúc và bằng đất, ngoài số nhân công do nhân dân đóng góp;

c) Chi phí về điện và xăng dầu;

d) Chi lương cho cán bộ, nhân viên và chi phí quản lý của các xí nghiệp thuỷ nông.

Để giảm nhẹ thuỷ lợi phí, tạm thời chưa tính khấu hao cơ bản các công trình xây đúc và bằng đất và khấu hao cơ bản các máy bơm lớn, xem đây như một khoản trợ cấp của Nhà nước đối với nông nghiệp. Khi cần trang bị thêm hoặc thay thế các máy bơm lớn, ngân sách Trung ương cấp trực tiếp cho Bộ Thuỷ lợi qua kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm.

Điều 3. Việc phân bổ thuỷ lợi phí cho mỗi đơn vị diện tích được hưởng lợi về nước căn cứ theo các nguyên tắc sau đây:

a) Phải tính đến mức độ phục vụ tưới nước, tiêu nước của từng công trình (tưới tiêu chủ động hoặc mới chủ động một phần, hoặc mới tạo nguồn nước tưới, mở đường nước tiêu).

b) Phải tính đến điều kiện và chi phí tưới nước, tiêu nước của từng công trình, trong từng vụ sản xuất.

Nguyên tắc này cần được vận dụng linh hoạt đối với những công trình có điều kiện tự nhiên thuận lợi, chi phí tương đối thấp, có thể thu thuỷ lợi phí cao hơn một chút so với chi phí thực tế để bù cho những công trình mà điều kiện tự nhiên không thuận lợi, chi phí cao, năm thời tiết thuận, chi phí thấp, vẫn thu thuỷ lợi phí theo mức bình thường để bù cho những năm thời tiết không thuận, chi phí cao.

c) Phải tính đến hiệu quả của dịch vụ tưới nước, tiêu nước, thể hiện ở năng suất của ruộng đất.

Điều 4. Thuỷ lợi phí tính bằng thóc.

Đối với những diện tích trồng cây lương thực thì thu bằng thóc (hoặc lương thực khác).

Đối với những trường hợp sau đây thì thu bằng tiền: những diện tích trồng các loại cây không phải là cây lương thực; các dịch vụ thuỷ lợi không có liên quan đến trồng trọt; những hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, hộ nông dân cá thể tuy sản xuất lương thực nhưng cân đối lương thực chưa vượt quá mức tối thiểu cần thiết do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu (dưới đây gọi tắt là tỉnh) quy định. Thuỷ lợi phí thu bằng tiền là số thóc phải trả tính theo giá mua thỏa thuận do Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định cho vụ sản xuất đó. Riêng đối với các tổ chức kinh tế quốc doanh và các cơ quan Nhà nước thì tính theo giá chỉ đạo thu mua của Nhà nước.

Điều 5. Căn cứ nguyên tắc ghi ở Điều 2, Điều 3 và Điều 4, mức thu thuỷ lợi phí (tính theo tỷ lệ phần trăm trên sản lượng trung bình của ruộng đất) đối với một đơn vị diện tích trồng lúa tưới tiêu chủ động quy định như sau:

 

Vụ đông xuân

Vụ hè thu

Vụ mùa

A. Tưới và tiêu bằng trọng lực

4-6.5%

4.5-7%

3-5.5%

B. Tưới bằng bơm điện,

tiêu bằng trọng lực


4.5-7%


5-7.5%


3.5-6%

C. Tưới và tiêu bằng bơm điện

5-7.5%

5.5-8%

4-6.5%

Trong trường hợp tưới tiêu mới chủ động một phần thì thu bằng 70-80% mức trên.

Trong trường hợp mới tạo nguồn nước tưới hoặc mở đường nước tiêu thì thu bằng 50-70% mức trên.

Đối với vụ hè thu, ở những nơi mưa đều, tưới ít thì thu bằng 90% mức trên (mức quy định cho vụ hè thu).

Trong trường hợp lợi dụng thuỷ triều để tưới tiêu thì thu bằng 70% mức thu ở điểm A, Điều 5 trên.

Trong trường hợp phải tưới bằng bơm dầu suốt vụ thì thu bằng 120% mức thu ở điểm C, Điều 5 trên.

Uỷ ban nhân dân tỉnh căn cứ mức tối thiểu và tối đa trên đây, quy định mức thu cụ thể ở địa phương.

[...]