Nghị định 11-HĐBT năm 1988 về điều lệ kiểm soát sát sinh gia súc, gia cầm do Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Số hiệu 11-HĐBT
Ngày ban hành 06/02/1988
Ngày có hiệu lực 06/02/1988
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Võ Văn Kiệt
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường,Thể thao - Y tế

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
*******

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******

SỐ 11-HĐBT

Hà Nội, ngày 6 tháng 02 năm 1988

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 11-HĐBT NGÀY 6-2-1988 BAN HÀNH ĐIỀU LỆ KIỂM SOÁT SÁT SINH GIA SÚC, GIA CẦM

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG  

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4 tháng 7 năm 1981;
Đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm ngăn ngừa dịch bệnh gia súc, gia cầm lây sang người và phòng ngừa, ngăn chặn việc lây lan dịch bệnh gia súc, gia cầm;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm,

NGHỊ ĐỊNH :

Điều 1. Nay ban hành kèm theo Nghị định này bản Điều lệ kiểm soát sát sinh gia súc, gia cầm.

Điều 2. Nghị định này thi hành kể từ ngày ký. Những quy định trước trái với Nghị định này đều bị bãi bỏ.

Điều 3. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm chịu trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra việc thi hành Điều lệ kiểm soát sát sinh gia súc, gia cầm.

Điều 4. Các Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

 

 

Võ Văn Kiệt

(Đã ký)
 

 

ĐIỀU LỆ

KIỂM SOÁT SÁT SINH GIA SÚC, GIA CẦM
(Ban hành kèm theo Nghị định số 11-HĐBT ngày 6-2-1988 của Hội đồng Bộ trưởng)

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Điều lệ này quy định những nguyên tắc, thủ tục và các biện pháp về kiểm soát sát sinh gia súc, gia cầm, nhằm:

1. Bảo vệ sức khoẻ cho người khi sử dụng các thực phẩm chế biến từ nguồn gốc gia súc, gia cầm.

2. Kịp thời phát hiện và ngăn chặn dịch bệnh gia súc, gia cầm lây lan qua khâu giết mổ.

3. Ngăn ngừa nạn lạm sát gia súc, bảo đảm thực hiện đúng các tiêu chuẩn gia súc được phép giết mổ.

Điều 2. Đối tượng kiểm soát sát sinh bao gồm:

a) Các loại gia súc như trâu, bò, lợn, ngựa, dê... Riêng đối với gia cầm thì việc kiểm soát sát sinh chỉ tiến hành khi tập trung giết mổ với số lượng lớn để chế biến, xuất khẩu v.v...(dưới đây gọi chung là gia súc, gia cầm).

b) Các lò sát sinh, dụng cụ và các phương tiện dùng vào việc giết mổ và chứa đựng, vận chuyển thịt và phủ tạng gia súc, gia cầm.

c) Các cơ sở chế biến và bảo đảm sản phẩm từ nguồn gốc gia súc, gia cầm.

Điều 3. Các tổ chức, cá nhân khi giết mổ gia súc phải tiến hành tại lò sát sinh. Trường hợp ở cách xa lò sát sinh từ 3 ki-lô-mét trở lên thì được mổ ở ngoài lò sát sinh nhưng phải báo Uỷ ban nhân dân xã, phường sở tại để cử cán bộ thú y cơ sở đến kiểm soát sát sinh. Việc giết mổ gia cầm với số lượng lớn để chế biến, xuất khẩu phải tiến hành tại lò sát sinh.

Điều 4. Gia súc gia cầm giết một phải được cán bộ thú y kiểm soát trước và sau khi giết mổ. Thịt của gia súc, gia cầm sau khi đã kiểm soát phải đóng dấu kiểm soát sát sinh. Mẫu dấu và vị trí đóng dấu trên thân thịt của gia súc, gia cầm do Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm quy định.

Điều 5. Cán bộ thú y làm nhiệm vụ kiểm soát sát sinh ở các lò sát sinh phải là bác sĩ thú y hoặc trung cấp thú y do thủ trưởng cơ quan thú y cấp trên quyết định.

Cán bộ công tác ở lò sát sinh, cán bộ thú y và công nhân trực tiếp giết mổ, chế biến, bảo quản thịt phải là những người không mắc bệnh truyền nhiễm và phải định kỳ kiểm tra sức khoẻ theo quy định của Bộ Y tế. Trong thời gian làm việc phải có trang bị phòng hộ lao động và được hưởng chế độ bồi dưỡng độc hại theo quy chế của Nhà nước.

[...]