Kết luận 74-KL/TW về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013 và nhiệm vụ năm 2014 và Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế - xã hội, trọng tâm là ba đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng do Ban Chấp hành Trung ương ban hành

Số hiệu 74-KL/TW
Ngày ban hành 17/10/2013
Ngày có hiệu lực 17/10/2013
Loại văn bản Văn bản khác
Cơ quan ban hành Ban Chấp hành Trung ương
Người ký Nguyễn Phú Trọng
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
-------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------

Số: 74-KL/TW

Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2013

 

KẾT LUẬN

HỘI NGHỊ LẦN THỨ TÁM BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XI

VỀ "TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013 VÀ NHIỆM VỤ NĂM 2014" VÀ "ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI, TRỌNG TÂM LÀ BA ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC GẮN VỚI TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ, ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG"

Ban Chấp hành Trung ương Đảng tán thành cơ bản nội dung Tờ trình và các báo cáo do Ban cán sự đảng Chính phủ trình về "Tình hình kinh tế - xã hội năm 2013 và nhiệm vụ năm 2014" và "Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế - xã hội, trọng tâm là ba đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng" và kết luận như sau:

I- Tình hình năm 2013 và kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế - xã hội, trọng tâm là ba đột phá chiến lược

1- Trong gần 3 năm qua, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo, cùng với khủng hoảng nợ công, cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực, diễn biến phức tạp trên Biển Đông,... tác động bất lợi đến kinh tế - xã hội nước ta. Trong nước, những hạn chế, yếu kém vốn có của nền kinh tế và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại nặng nề. Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn. Nhu cầu bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội ngày càng cao. Đồng thời, chúng ta phải dành nhiều công sức để bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền đất nước.

Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước đã kịp thời điều chỉnh trọng tâm chỉ đạo, điều hành theo hướng tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội. Với những nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong 3 năm qua, đã tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, biện pháp đưa kinh tế đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được nhiều kết quả tích cực, đúng hướng trên các lĩnh vực.

Lạm phát đã được kiềm chế, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 18,13% năm 2011 còn khoảng 7% năm 2013. Mặt bằng lãi suất giảm mạnh. Tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối tăng. Hoạt động của hệ thống các tổ chức tài chính - tín dụng an toàn, ổn định hơn. Xuất khẩu tăng khá; cán cân thương mại được cải thiện; tỷ lệ nhập siêu giảm. Nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn.

Kinh tế từng bước được phục hồi; tăng trưởng kinh tế năm 2013 cao hơn năm 2012, dự kiến đạt 5,4%, bình quân 3 năm 2011 - 2013 đạt 5,6%/năm. Sản xuất công nghiệp, xây dựng, nhất công nghiệp chế biến, chế tạo từng bước được cải thiện. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng ổn định. Khu vực dịch vụ tăng trưởng khá. Chất lượng tăng trưởng có mặt được cải thiện. Ba đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng được cả hệ thống chính trị quan tâm, nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện, đạt một số kết quả bước đầu.

Trong điều kiện ngân sách nhà nước rất khó khăn, Đảng và Nhà nước đã quan tâm dành nguồn lực bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh. Tỉ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm. Trên 98% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú. Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên được mở rộng lên trên 2,5 triệu người. Hệ thống bảo hiểm xã hội phát triển đa dạng. Mạng lưới cơ sở y tế tiếp tục phát triển, chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân có chuyển biến tích cực. Thông tin truyền thông và các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao gắn với thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và chương trình xây dựng nông thôn mới tiếp tục được quan tâm. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường. Phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí có chuyển biến tích cực. Tiềm lực quốc phòng được nâng lên, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh và đạt kết quả tích cực; vị thế quốc tế của đất nước tiếp tục được nâng cao.

2- Tuy nhiên, kinh tế - xã hội nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định vững chắc, nguy cơ lạm phát cao vẫn còn tiềm ẩn; nợ xấu còn cao, hoạt động của một số tổ chức tín dụng chưa thật an toàn; cân đối ngân sách khó khăn. Thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán trầm lắng. Sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng còn lớn. Khu vực công nghiệp tăng trưởng thấp hơn giai đoạn trước. Sản xuất, xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ lực gặp khó khăn về thị trường và giá cả. Việc thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm và nhiều bất cập: tái cơ cấu ngành, lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chưa có nhiều chuyển biến.

Lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, thông tin truyền thông còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Nguy cơ tái nghèo, tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn còn cao. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được mục tiêu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi. Khiếu kiện liên quan đến đất đai vẫn còn nhiều. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Bảo vệ chủ quyền quốc gia đứng trước nhiều thách thức.

3- Những hạn chế, yếu kém trên đây do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Bên cạnh những vấn đề mới phát sinh, còn có những yếu kém, tồn tại từ nhiều năm trước. Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu, những biến động bên ngoài tác động trực tiếp đến kinh tế, xã hội trong nước; trong khi đó khả năng phân tích, dự báo, nắm bắt tình hình chưa tốt, dẫn tới nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp đề ra còn chưa thật kịp thời, phù hợp. Nhận thức trên một số vấn đề về chủ trương, quan điểm phát triển đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội XI vẫn còn khác nhau, dẫn đến đổi mới thể chế, chính sách còn ngập ngừng, chưa nhất quán, đặc biệt là vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường, quyền làm chủ của nhân dân, vai trò của kinh tế nhà nước, sở hữu và quyền sử dụng đất đai... chưa tạo được đột phá mạnh để huy động mọi nguồn lực cho phát triển. Nhiều chương trình hành động, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI còn chưa cụ thể, sát với thực tiễn, hiệu quả chưa cao. Quản lý nhà nước nhiều mặt chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.

4- Sau gần 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về phát triển kinh tế - xã hội, có thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu:

Một là, phải đổi mới tư duy phát triển, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm mục tiêu cao nhất, có chủ trương, chính sách đột phá huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phải đề cao kỷ cương, kỷ luật, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai là, phải thể chế hóa kịp thời những chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước và tổ chức thực hiện kiên trì, quyết liệt, sáng tạo; bám sát tình hình thực tiễn của đất nước, tăng cường phân tích dự báo để xác định mục tiêu, chính sách, giải pháp phù hợp.

Ba là, phải tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, nhưng phải cân đối nguồn lực để bảo đảm duy trì tăng trường hợp lý. Đồng thời, trong điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, phải tiếp tục ưu tiên nguồn lực cho bảo đảm an sinh xã hội và phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Bốn là, kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ động hội nhập, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Năm là, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; tạo đồng thuận xã hội trong việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và giữ vững ổn định chính trị, xã hội.

II- Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2014-2015

1- Mục tiêu tổng quát

Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; phục hồi tăng trưởng và nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh trên cơ sở đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Bảo vệ tài nguyên, môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí; cải thiện môi trường kinh doanh. Bảo đảm quốc phòng và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Năm 2014, tập trung cao cho ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; đồng thời, tranh thủ thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tạo động lực, niềm tin cho người dân và doanh nghiệp, phấn đấu có mức tăng trưởng cao hơn năm 2013.

2- Các chỉ tiêu chủ yếu

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 6%/năm; kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân khoảng 10%/năm; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bằng khoảng 31 - 32% GDP; GDP bình quân đầu người khoảng 2.200 - 2.300 USD vào năm 2015; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng khoảng 7%/năm. Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 55% vào năm 2015; giải quyết việc làm cho 3,0 - 3,2 triệu lao động; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5 - 2%/năm, riêng các huyện nghèo giảm 4%; tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2015 đạt 42%.

Năm 2014, tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 5,8%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng khoảng 7%, bội chi ngân sách nhà nước 5,3% GDP, nhập siêu khoảng 6% kim ngạch xuất khẩu; phấn đấu bảo đảm thực hiện được các mục tiêu xã hội như: tạo việc làm, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội...

3- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu

3.1- Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát

Tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, chính sách tiền tệ linh hoạt, bảo đảm kiểm soát lạm phát, đồng thời duy trì đà tăng trưởng. Điều hành lãi suất phù hợp với lạm phát mục tiêu. Tăng dư nợ tín dụng phù hợp; bảo đảm chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu. Điều hành hiệu quả tỷ giá, thị trường ngoại hối, thị trường vàng, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam, tăng dự trữ ngoại hối. Thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán. Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu ở mức hợp lý. Thúc đẩy phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán.

[...]