Kế hoạch 99/KH-UBND năm 2021 về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 tỉnh Lạng Sơn

Số hiệu 99/KH-UBND
Ngày ban hành 04/05/2021
Ngày có hiệu lực 04/05/2021
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Lạng Sơn
Người ký Hồ Tiến Thiệu
Lĩnh vực Đầu tư,Thương mại

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 99/KH-UBND

Lạng Sơn, ngày 04 tháng 5 năm 2021

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2021 - 2025 TỈNH LẠNG SƠN

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;

Căn cứ Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 13/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025;

Căn cứ Nghị quyết số 36/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 tỉnh Lạng Sơn;

UBND tỉnh ban hành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 tỉnh Lạng Sơn với các nội dung như sau:

Phần I

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016 - 2020

I. NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU

1. Về phát triển kinh tế

Kinh tế tiếp tục phát triển, tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân hằng năm giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 4,67%1, trong đó: Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,32%; công nghiệp - xây dựng tăng 10,97% (công nghiệp tăng 9,63%, xây dựng tăng 12,13%); dịch vụ tăng 4,41%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 1,79%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, năm 2020 ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 23,19%, giảm 2,44%, công nghiệp - xây dựng chiếm 22,47%, tăng 5,08%; dịch vụ chiếm 49,59%, giảm 0,68%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,75%, giảm 1,96% so với năm 2015. GRDP bình quân đầu người năm 2020 ước đạt 43,4 triệu đồng (gấp 1,41 lần so với năm 2015), tương đương 1.896 USD.

a) Xây dựng và phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn

Việc xây dựng và phát triển Khu kinh tế cửa khẩu (KTCK) Đồng Đăng - Lạng Sơn đạt một số kết quả quan trọng, kết cấu hạ tầng được tăng cường, năng lực thông quan hàng hoá tiếp tục được nâng lên, tạo môi trường khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư. Đã cơ bản hoàn thiện hệ thống quy hoạch các loại, từ quy hoạch chung xây dựng đến quy hoạch chi tiết các khu vực cửa khẩu, khu chức năng của Khu KTCK; tích cực tranh thủ các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương và ưu tiên bố trí các nguồn vốn của tỉnh để tập trung đầu tư xây dựng, hoàn thiện các công trình, dự án phát triển kết cấu hạ tầng trọng yếu của Khu KTCK. Tổng vốn đầu tư xây dựng Khu KTCK từ năm 2016 đến 2020 từ nguồn ngân sách nhà nước khoảng 4.000 tỷ đồng, được tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, các chương trình dự án trọng điểm, các ngành kinh tế mũi nhọn để tạo động lực cho các ngành khác cùng phát triển. Tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, trên địa bàn Khu KTCK hiện có 122 dự án trong nước còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký đạt trên 22.700 tỷ đồng và 20 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đầu tư đăng ký trên 207 triệu USD; đang triển khai các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng Khu trung chuyển hàng hóa và Khu chế xuất 1.

Đã tập trung chỉ đạo với nhiều giải pháp tích cực nâng cao năng lực thông quan, tạo thuận lợi cho trên 3.000 doanh nghiệp và tổ chức kinh tế trong cả nước thường xuyên tham gia xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu của tỉnh với khoảng 2.000 xe/ngày. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 21.795 triệu USD, gấp 1,54 lần so với giai đoạn trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu 12.075 triệu USD, gấp 1,89 lần; nhập khẩu 9.720 triệu USD, gấp 1,24 lần. Năm 2020, hoạt động xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn tỉnh ước đạt 2.810 triệu USD, trong đó xuất khẩu 1.220 triệu USD; nhập khẩu 1.590 triệu USD; xuất khẩu các mặt hàng địa phương ước đạt 120 triệu USD, bình quân hằng năm giai đoạn 2016 - 2020 tăng 4,56%2;

b) Về phát triển nông, lâm nghiệp và xây dựng nông thôn mới

Chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo thực hiện, hướng vào phát triển các vùng sản xuất tập trung gắn với cây, con chủ lực, thế mạnh các ngành, nghề truyền thống, đặc sản của địa phương; từng bước hình thành, nhân rộng các mô hình liên kết kinh tế, hợp tác xã nông nghiệp; phát triển các vùng sản xuất an toàn theo các tiêu chuẩn tiên tiến (VietGap, GlobalGap), đẩy mạnh quảng bá giới thiệu, xây dựng nhãn mác, thương hiệu để nâng cao giá trị sản phẩm. Lĩnh vực trồng trọt có chuyển biến mạnh về cơ cấu cây trồng, mùa vụ, áp dụng tiến bộ kỹ thuật về giống, công nghệ cao vào sản xuất; sản lượng lương thực hằng năm đạt trên 310 nghìn tấn; hình thành khá rõ nét một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung sản phẩm chủ lực của tỉnh3. Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) triển khai có hiệu quả; các sản phẩm đặc sản đã dần khẳng định được chất lượng và thương hiệu trong nước và quốc tế4. Hệ thống mạng lưới dịch vụ nông nghiệp được phát triển rộng khắp trên địa bàn nông thôn, cung ứng đầy đủ, kịp thời vật tư phục vụ sản xuất trên địa bàn. Thực hiện tốt công tác quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm.

Lĩnh vực chăn nuôi có những chuyển dịch khá rõ nét về cơ cấu giống, cơ cấu đàn, hình thức chăn nuôi đã từng bước chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ quy mô hộ sang chăn nuôi tập trung, trang trại, gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm, đã có một số doanh nghiệp, hợp tác xã ứng dụng công nghệ tiên tiến vào chăn nuôi với quy mô khá, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Do diện tích đồng cỏ thu hẹp và mức độ cơ giới hóa nông nghiệp tăng nhanh, dịch tả lợn châu Phi xảy ra từ năm 2019, tổng đàn trâu, bò, lợn giảm so với năm 2015; đàn gia cầm phát triển tương đối ổn định, bình quân hằng năm tăng 8,1%5. Thủy sản có bước phát triển, diện tích nuôi trồng ổn định khoảng 1.260 ha; tổng sản lượng năm 2020 ước đạt 1.940 tấn, tăng 17,6% so với năm 2015.

Phong trào trồng rừng, phát triển kinh tế đồi rừng đã và đang được người dân và doanh nghiệp hưởng ứng mạnh mẽ; bình quân hằng năm trồng rừng mới được trên 10,5 nghìn ha, nâng độ che phủ rừng từ 54,5% năm 2015 lên 63% năm 2020; tổng diện tích rừng khoán bảo vệ cả giai đoạn đạt 120.986 ha, rừng được khoanh nuôi đạt 5.938 ha. Chất lượng rừng ngày một nâng cao, đã hình thành khá rõ nét các vùng sản xuất tập trung chuyên canh một số loài cây chủ lực, cây gỗ lớn như: vùng thông diện tích 108.000 ha, keo, bạch đàn trên 24.500 ha, hồi trên 25.000 ha, đang hình thành vùng cây nguyên liệu quế gần 1.200 ha,...

Chương trình xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo quyết liệt, toàn diện trên địa bàn tỉnh, trong đó tập trung thực hiện tại các xã phấn đấu đạt chuẩn trong từng năm. Năm 2020, toàn tỉnh có 65/181 xã đạt chuẩn nông thôn mới (74/207 xã trước sáp nhập, tăng 61 xã so với năm 2015); bình quân 01 xã trên địa bàn tỉnh đạt 12,5 tiêu chí, tăng 5,1 tiêu chí so với năm 2015; có 07 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; xây dựng được 30 khu dân cư kiểu mẫu; thành phố Lạng Sơn được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

c) Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp duy trì mức tăng trưởng khá cao, chỉ số sản xuất công nghiệp hằng năm tăng trên 10,5% (riêng năm 2017 tăng 4,9%). Tiếp tục khai thác tốt lợi thế trong các lĩnh vực sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng, than, điện, chế biến nông, lâm sản... Một số năng lực sản xuất mới tăng thêm, gồm: 03 nhà máy thủy điện (Bắc Khê 1, Thác Xăng (Bắc Giang 2), Khánh Khê), các cơ sở chế biến gỗ khu vực huyện Hữu Lũng, chế biến nhựa thông tại các huyện Lộc Bình, Đình Lập, khai thác và chế biến đá làm vật liệu xây dựng... Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh là: 02 nhà máy xi măng với tổng công suất 126 vạn tấn/năm, nhà máy nhiệt điện Na Dương công suất 100 MW, mỏ than Na Dương công suất 600 nghìn tấn/năm, một số nhà máy sản xuất gỗ và các sản phẩm từ gỗ với công suất 90 nghìn m3/năm; có khoảng 45 mỏ đá vôi đang khai thác có tổng trữ lượng 405 triệu m3. Triển khai thực hiện dự án Cụm công nghiệp Hợp thành 1, 2 theo hình thức đối tác công tư (PPP). Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án điều chỉnh, bổ sung quy hoạch các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn (bổ sung Khu công nghiệp Hữu Lũng). Tiếp tục xúc tiến thu hút đầu tư xây dựng hạ tầng một số khu, cụm công nghiệp.

c) Thương mại, dịch vụ, du lịch

Lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch phát triển khá toàn diện. Hệ thống phân phối hàng hóa phát triển đa dạng, rộng khắp6, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và phục vụ sản xuất, các mặt hàng thiết yếu được cung ứng đầy đủ, kịp thời đến các xã vùng xa, xã đặc biệt khó khăn. Công tác bình ổn thị trường giá cả hàng hoá được triển khai thực hiện có hiệu quả gắn với thực hiện Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ năm 2020 đạt 20.078 tỷ đồng, bình quân hằng năm tăng 9,1%. Công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả được chỉ đạo thực hiện quyết liệt, không để hình thành các tụ điểm lớn, phức tạp7.

Hệ thống ngân hàng phát triển an toàn, hiệu quả8; mạng lưới thanh toán hiện đại đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Tích cực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường với chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp; tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn vay với lãi suất hợp lý để hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh. Tốc độ tăng trưởng bình quân huy động vốn hằng năm đạt 16,6%, dư nợ tín dụng đạt 19%, nơ xấu hằng năm được kiểm soát dưới mức 3%. Hoạt động bưu chính, viễn thông phát triển rộng khắp về hạ tầng và dịch vụ, đảm bảo đáp ứng yêu cầu cho thông tin, liên lạc, hoạt động sản xuất, kinh doanh và nhu cầu sinh hoạt9. Năm 2020, doanh thu bưu chính ước đạt 230 tỷ đồng, bình quân hằng năm tăng 33,4%; doanh thu viễn thông 910 tỷ đồng, tăng 1%. Năng lực vận tải, số lượng phương tiện, nhất là ô tô tăng mạnh, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải thường xuyên được bảo trì, nâng cấp, đáp ứng tốt nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá. Hiện có 09 bến xe khách được công bố theo quy định đang phục vụ hoạt động vận tải khách nội tỉnh (14 tuyến), liên tỉnh (439 tuyến)10; đã xây dựng được các bến xe hàng, bãi đỗ xe hàng tại các khu vực cửa khẩu, cơ bản đáp ứng nhu cầu hoạt động vận tải hàng hoá cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu qua địa bàn tỉnh. Năm 2020, hoạt động dịch vụ vận tải giảm mạnh so với năm 2019 do ảnh hưởng đại dịch Covid-19; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 350,2 triệu Tấn.Km, hành khách luân chuyển đạt 295,3 triệu HK.Km, tổng doanh thu vận tải ước đạt 892 tỷ đồng.

Hoạt động du lịch phát triển cả về lượng khách, loại hình dịch vụ, doanh thu và chất lượng phục vụ. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ du lịch từng bước được đầu tư nâng cấp, hình thành và đưa vào hoạt động nhiều khu, điểm du lịch với nhiều loại hình như: du lịch văn hoá, tâm linh, sinh thái nghỉ dưỡng, văn hoá cộng đồng, mua sắm, biên giới…; một số sản phẩm du lịch đang dần được khẳng định thương hiệu, các khu, điểm du lịch đã chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng; hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch, lữ hành có sự chuyển biến tích cực11. Tổng lượng khách du lịch 5 năm ước đạt trên 12,5 triệu lượt, gấp 1,21 lần giai đoạn trước; riêng năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, khách du lịch đến Lạng Sơn ước đạt 1.604 nghìn lượt, doanh thu 639,3 tỷ đồng, giảm mạnh so với năm 2019. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1590/QĐ-TTg phê phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch Quốc gia Mẫu Sơn đến năm 2040. Đang tập trung hỗ trợ, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư triển khai dự án Quần thể khu du lịch sinh thái, cáp treo Mẫu Sơn.

đ) Phát triển doanh nghiệp và công tác xúc tiến đầu tư

Công tác phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã và xúc tiến đầu tư được chú trọng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh; xác định nhiệm vụ tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong năm 2020. Thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Trong 5 năm có trên 1.900 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký đạt trên 12.393 tỷ đồng, tăng 60% số doanh nghiệp và 120% số vốn đăng ký so với giai đoạn trước. Toàn tỉnh có trên 3.200 doanh nghiệp hoạt động, vốn đăng ký khoảng 28.000 tỷ đồng, duy trì việc làm cho trên 50.250 lao động, thu nhập bình quân hằng tháng khoảng 5 triệu đồng/người. Kinh tế tập thể được quan tâm phát triển, hình thành một số mô hình hợp tác xã kiểu mới gắn với chuỗi liên kết hoạt động hiệu quả12. Việc cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định, hoàn thành thoái vốn 03 doanh nghiệp Nhà nước thuộc tỉnh quản lý13.

Công tác xúc tiến, kêu gọi đầu tư, xúc tiến thương mại được chú trọng, thường xuyên tổ chức các hội chợ, triển lãm, tiếp xúc doanh nghiệp có tiềm năng kêu gọi đầu tư, phổ biến các luật mới ban hành, các hội thảo nâng cao chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh, cải cách thủ tục hành chính (năm 2019 chỉ số PCI xếp hạng 50/63, tăng 5 bậc so với 2016; chỉ số PAPI xếp hạng 24/63). Tổ chức thành công Hội nghị xúc tiến đầu tư tỉnh Lạng Sơn năm 2019, thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn đến đầu tư và khảo sát đề xuất, đăng ký đầu tư. Giai đoạn 2016 - 2020, đã thu hút 143 dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh với tổng vốn trên 54 nghìn tỷ đồng14. Hiện có 30 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký khoảng 275,2 triệu USD. Từ năm 2016 đến năm 2020 đã triển khai thực thực hiện 12 dự án ODA với tổng vốn trên 3.586,2 tỷ đồng.

[...]