Kế hoạch 594/KH-UBND năm 2018 về thực hiện Nghị định 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp do tỉnh Đắk Nông ban hành

Số hiệu 594/KH-UBND
Ngày ban hành 09/11/2018
Ngày có hiệu lực 09/11/2018
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Đắk Nông
Người ký Trương Thanh Tùng
Lĩnh vực Doanh nghiệp

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK NÔNG

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 594/KH-UBND

Đắk Nông, ngày 09 tháng 11 năm 2018

 

KẾ HOẠCH

TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 98/2018/NĐ-CP NGÀY 05/7/2018 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN HỢP TÁC, LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP

Thực hiện Nghị định số 98/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đồng thời, xét đề nghị của Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Tờ trình số 202/TTr-SNN ngày 23/10/2018 về việc đề nghị ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 98/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ. UBND tỉnh ban hành Kế hoạch cụ thể như sau:

I. Thực trạng liên kết sản xuất trong nông nghiệp

- Trong những năm qua, được sự hỗ trợ, đầu tư từ các chương trình, dự án, ngành nông nghiệp của tỉnh đã có bước chuyển biến rõ rệt, trên địa bàn tỉnh đã có nhiều mô hình liên doanh, liên kết trong sản xuất, hình thành các chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp, giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, ổn định được đầu ra sản phẩm, nâng cao thu nhập cho nông dân, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, giải quyết việc làm ở nông thôn, tạo nên mối liên kết bền chặt giữa người nông dân và doanh nghiệp.

- Hiện nay, trên địa bàn tỉnh hầu hết các mô hình hợp tác xã nông nghiệp có sự liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; nhiều Tổ hợp tác liên kết sản xuất theo chuỗi thông qua chương trình hỗ trợ của Dự án 3EM như mô hình chăn nuôi bò, cà phê, khoai lang... Mối liên kết “5 nhà” trong sản xuất nông nghiệp gồm “nhà nông”, “nhà nước”, “nhà khoa học”, “doanh nghiệp” và “ngân hàng” được xem là mô hình ưu việt gắn sản xuất, chế biến và tiêu thụ, tận dụng có hiệu quả tiềm năng, lợi thế địa phương nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm có giá trị cao, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Đến nay, đã hình thành một số mô hình liên kết điển hình giữa doanh nghiệp, hợp tác xã với nông dân trong sản xuất, tiêu thụ các loại nông sản trên địa bàn tỉnh, như:

- Công ty TNHH công nghiệp thực phẩm Tất Thắng liên kết với người nông dân đsản xuất và tiêu thụ sản phẩm đậu nành, đậu phộng tại huyện Cư Jút; Công ty Cổ phần đầu tư và xuất nhập khẩu An Phong liên kết với người nông dân để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cà phê, hồ tiêu tại huyện Đk Song và huyện Đắk R’lấp,...

- Tổ hợp tác sản xuất lúa cánh đồng mẫu xã Buôn Choah (Krông Nô) từ khi hình thành và đi vào hoạt động đến nay đã khuyến khích nông dân dồn điền, dồn thửa và đưa máy móc vào sản xuất. Qua đó, nông dân đã biết ứng dụng đồng bộ cơ giới hóa và kỹ thuật canh tác để khai thác lợi thế của địa phương trong sản xuất lúa theo quy trình VietGAP. Hoạt động sản xuất của nông dân đều tuân thủ nghiêm túc theo lịch thời vụ do Thợp tác đưa ra. Hiện nay, từ khâu làm đất, gieo sạ cho đến khi phun thuốc, bón phân, chăm sóc, thu hoạch đều được các thành viên của Thợp tác sử dụng chung phương tiện máy móc. Do áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật, cơ giới hóa nên đã tăng năng suất, giảm chi phí sản xuất. Rõ nhất là lợi nhuận của mô hình sản xuất lúa theo VietGAP đạt trên 31 - 35 triệu đồng/ha, trong khi sản xuất theo hình thức cũ chỉ đạt từ 18 - 26,5 triệu đồng/ha.

- Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp Công Bằng Thuận An, xã Thuận An (Đắk Mil) được Hiệp hội Thương mại công bng Fairtrade của thế giới cấp giấy chứng nhận trở thành thành viên sản xuất cà phê thương mại công bng ở Việt Nam.

- Thời gian qua, UBND các huyện, thị xã đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, nhà khoa học gặp gỡ, đối thoại với nông dân, tìm đầu ra cho các sản phẩm nông sản của địa phương. Đồng thời tạo điều kiện cho nông dân tham gia các hội chợ xúc tiến thương mại giới thiệu các mặt hàng, sản phẩm nông sản, tạo cơ hội giao lưu giữa nông dân và doanh nghiệp, thương nhân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mô hình liên kết “5 nhà” hiện vẫn chưa phát huy được hiệu quả, còn nhiều hạn chế.

- Trên địa bàn tỉnh việc liên kết để thu mua, tiêu thụ sản phẩm nông sản giữa doanh nghiệp và nhân dân không nhiều, trong khi đó số lượng hợp tác xã nông nghiệp hiệu quả chưa cao, không đủ năng lực thực hiện việc thu mua, tiêu thụ nông sản cho nông dân. Có tới 95% sản lượng nông sản của các hộ nông dân làm ra chủ yếu do các đại lý nông sản tại địa phương thu mua, giá cả hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường tự do.

- Mặc dù đã từng có một số doanh nghiệp vào liên kết với các hộ dân trong việc đầu tư sản xuất và hợp đồng bao tiêu sản phẩm đối với các mặt hàng nông sản như cà phê, hồ tiêu, khoai lang,... song mối liên kết này thiếu bền vững, chỉ mang tính thời vụ và hầu hết các doanh nghiệp chưa tin tưởng vào người nông dân. Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ người dân còn hạn chế, thiếu hiểu biết, vì cái lợi trước mắt không thực hiện theo hợp đồng đã ký bao tiêu nông sản với giá cả thỏa thuận ban đầu, nhưng đến kỳ thu hoạch thương lái thu mua với giá cao hơn người nông dân sẵn sàng phá vỡ hợp đồng để bán cho các thương lái, việc làm này đã gây nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp. Trong khi đó, vai trò của Nhà nước với tư cách là “trọng tài” chỉ dừng lại ở định hướng, chưa thcan thiệp sâu. Ngoài các doanh nghiệp vào hợp tác thu mua nông sản, còn có một số doanh nghiệp vào thuê đất để thực hiện các dự án sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như sản xuất rau sạch, nuôi bò sữa theo hình thức bán công nghiệp. Tuy nhiên, do không tìm được quỹ đất “đất sạch” nên các doanh nghiệp cũng không thể thực hiện dự án đầu tư.

- Đối với các nhà khoa học có nhiệm vụ giúp đỡ cho nông dân về kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất. Nhưng đến nay chưa có nhà khoa học nào về cơ sở để thực hiện các đề tài nghiên cứu trong sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Người nông dân rất ít hoặc khó có cơ hội được tiếp xúc trực tiếp với các nhà khoa học, chủ yếu tiếp xúc gián tiếp thông qua hệ thống khuyến nông ứng dụng các thành quả nghiên cứu (như sử dụng giống mới, phân bón vi sinh ...). Việc hỗ trợ, hướng dẫn các hộ nông dân ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất chủ yếu do hệ thống khuyến nông đảm nhiệm và do người dân tự học hỏi là chính.

- Thực hiện chủ trương của Nhà nước về việc tạo điều kiện cho người dân tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi để đầu tư sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn rất khó khăn. Do dự án, phương án sản xuất không khả thi.

- Đối với các Ngân hàng dù đã có chủ trương cho nông dân vay vốn ưu đãi, nhưng khi nông dân tiếp cận các nguồn vốn vay để đầu tư cho sản xuất ứng dụng công nghệ cao thì rất khó khăn, do phương án sản xuất không khả thi hoặc không có tài sản thế chấp.

II. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc liên kết theo chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp

1. Thuận li

- Thực tế tại một số mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh cho thấy việc liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp và người nông dân trong sản xuất đã mang lại hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp, giúp hình thành những cánh đồng lớn, tăng tỷ lệ cơ giới hóa, tăng năng suất lao động, ổn định được đầu ra cho sản phẩm, giảm tổn thất sau thu hoạch.

- Có sự vào cuộc của các cấp, các ngành trong việc thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trong đó có sự liên kết sản xuất trong nông nghiệp.

- Đa số nông dân đều hưởng ứng và chủ động trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, góp phần đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho nông dân.

2. Khó khăn

- Các hình thức liên doanh, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chưa thực sự phù hợp, chặt chẽ. Nhận thức của nông dân với việc liên doanh, liên kết hình thành chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp chưa cao. Nông dân chưa thấy được lợi ích lâu dài của việc liên doanh, liên kết, sản xuất, tiêu thụ nông sản, doanh nghiệp chưa chú trọng vào khâu đầu tư vùng nguyên liệu để thc hiện hợp đồng sản xuất bền vững.

- Công tác tuyên truyền, vận động nông dân, Hợp tác xã nông nghiệp, doanh nghiệp tham gia chuỗi liên kết sản xuất chưa được chú trọng, nhiều doanh nghiệp, Hợp tác xã và người nông dân chưa hiểu được tầm quan trọng khi mình tham gia thực hiện ký kết sản xuất hàng hóa.

- Nội dung hợp đồng bao tiêu sản phẩm có tính hướng dẫn, không phải là hợp đồng kinh tế nên tính pháp lý không cao. Do đó việc vi phạm hợp đồng rất dễ xảy ra và không có đủ cơ sở pháp lý chế tài để xử lí vi phạm. Không có cơ quan chuyên trách làm đầu mối để xử lý thỏa đáng nên dẫn tới mất lòng tin giữa nông dân và doanh nghiệp.

- Doanh nghiệp, Hợp tác xã nông nghiệp thiếu vốn đầu tư, mặt khác sản xuất nông nghiệp thường gặp rủi ro do thiên tai, giá cả thị trường biến động, các mặt hàng nông sản chưa được bảo hiểm giá nên các doanh nghiệp, Hợp tác xã nông nghiệp ngại ký hợp đồng lâu dài với người sản xuất.

- Nguồn vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi để cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế. Bên cạnh đó, các Hợp tác xã nông nghiệp chưa tạo được uy tín trong quan hệ tín dụng với ngân hàng; Báo cáo tài chính thiếu minh bạch, thiếu tài sản thế chấp để đảm bảo tiền vay,... Do đó, việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp và Hợp tác xã nông nghiệp còn khó khăn.

- Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp còn chậm, đôi khi còn thụ động, nông dân còn chạy theo cơ chế giá thị trường, chạy theo giá cả, đầu tư ồ ạt, thấy loại cây nào tại thời điểm có giá cao thì trồng những loại cây nông sản đó, khi giá nông sản đó mất giá thì lại phá bỏ trồng loại cây khác cứ thế tiếp tục diễn ra, vì vậy hiệu quả sản xuất thấp, làm ăn thua lỗ, ảnh hưởng lớn đến liên kết trong sản xuất.

- Sự liên kết “5 nhà” trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng chưa được chú trọng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ liên quan.

[...]