Kế hoạch 3797/KH-UBND năm 2015 về phát triển Kinh tế tập thể 5 năm 2016-2020 do Tỉnh Bình Dương ban hành

Số hiệu 3797/KH-UBND
Ngày ban hành 30/10/2015
Ngày có hiệu lực 30/10/2015
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Bình Dương
Người ký Trần Thanh Liêm
Lĩnh vực Thương mại

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 3797/KH-UBND

Bình Dương, ngày 30 tháng 10 năm 2015

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ 5 NĂM 2016-2020

Căn cứ Công văn số 2046/BKHĐT-HTX, ngày 10/4/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc xây dựng kế hoạch phát triển Kinh tế tập thể 5 năm 2016-2020. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể (KTTT) 5 năm 2016-2020 như sau:

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH TẾ TẬP THỂ GIAI ĐOẠN 2011-2015

I. ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. Tổ hợp tác (THT):

Sau khi rà soát theo Nghị định 151/2007/NĐ-CP ngày 10/10/2007, thì tổ hợp tác (THT) toàn tỉnh chỉ còn lại 344 tổ hợp tác (THT), với 5.744 thành viên (theo số liệu báo cáo của 9/9 huyện, thị, thành phố). Tổ hợp tác hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp; từ đó đã tạo được việc làm cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống cho các thành viên.

2. Hợp tác xã (HTX):

Toàn tỉnh hiện có 118 HTX với 56.537 thành viên, vốn điều lệ 640 tỷ 746 triệu đồng, vốn hoạt động: 2.087 tỷ 819 triệu đồng. So với đầu nhiệm kỳ tăng 21 HTX, bình quân tăng 10,5% HTX/năm, đạt 78,5% so với kế hoạch (thành lập mới: 59 HTX); vốn điều lệ tăng gấp 4 lần, vốn hoạt động tăng 188%, thành viên tăng 136%. Trong đó, số HTX ở từng lĩnh vực như sau: Vận tải: 25 HTX, Nông nghiệp: 28 HTX, TTCN: 10 HTX, Xây dựng: 13 HTX, Thương mại: 32 HTX và QTDND: 10.

3. Về trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý HTX được quan tâm. Từ đó trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ quản lý HTX, QTD (Chủ tịch HĐQT, Giám đốc, phó Giám đốc, Trưởng Ban Kiểm soát và Kế Toán trưởng) được nâng cao, hiện có 240/263 cán bộ quản lý của 87 HTX (Qua công tác điều tra, khảo sát) được đào tạo đạt 91%; trong đó: sơ cấp 08 người chiếm 3%, trung cấp 94 người chiếm 36%, cao đẳng 34 người chiếm 13%, đại học 103 người chiếm 39%, và sau đại học 01 người chiếm tỷ lệ 0,4% (theo số liệu điều tra, khảo sát thực tế các HTX năm 2013).

II. ĐÁNH GIÁ THEO LĨNH VỰC

Tuy chịu ảnh hưởng chung của khủng hoảng kinh tế cả nước, từ đó tình hình sản xuất kinh doanh của HTX cũng gặp nhiều khó khăn nhưng các HTX đã nỗ lực đổi mới, củng cố tổ chức, từng bước khắc phục khó khăn, nâng cao năng lực nội tại để vươn lên. Hàng năm số HTX tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả đạt từ 66-79% trên tổng số HTX hiện có. Doanh thu hàng năm tăng bình quân 14%/năm (chỉ tiêu kế hoạch 14-15%/năm); các HTX thực hiện tốt nghĩa vụ thuế Nhà nước, thu nhập bình quân của người lao động đạt từ 2-3,5 triệu/tháng (thấp nhất 1,2 triệu, cao nhất 4,5 triệu). Kết quả phân loại HTX: Số HTX làm ăn khá giỏi đạt 51,2%, trung bình là 37,2% , yếu kém là 11,6% (chỉ tiêu kế hoạch HTX khá giỏi đạt 55% trở lên, HTX trung bình đạt 40%, HTX yếu kém còn dưới 5%).

1. Nông nghiệp: Có 28 HTX (tăng 17 HTX), với 1.046 thành viên, vốn điều lệ 13,4 tỷ đồng; so với năm 2010 số HTX tăng 59%, thành viên tăng 33%, vốn điều lệ tăng 89%, giải quyết việc làm cho hơn 1.500 lao động nông thôn. Hoạt động của các HTX hiện nay chuyển đổi sang dịch vụ phục vụ nông nghiệp như: thực hiện một số khâu dịch vụ kinh tế hộ xã viên (chuyển giao khoa học kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm, cung ứng giống, vật tư, làm đất, chăm sóc cây trồng); điển hình các hợp tác xã Thanh Tân, Tân Ba, Hiệp Lực, Phước Thái, Nhân Đức…thu nhập bình quân từ 1,2 triệu đến 3,5 triệu đồng/người/ tháng. Phần lớn quy mô hoạt động của HTX Nông nghiệp còn nhỏ, năng lực nội tại còn yếu cả về vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ sản xuất, hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ và dịch vụ đơn thuần cho kinh tế hộ nông dân nên doanh thu và hiệu quả thấp.

2. Vận tải: Có 25 HTX (giảm 05 HTX), với 1.259 thành viên, vốn điều lệ 84,3 tỷ đồng, có 1.082 đầu xe (xe tải: 179, xe khách: 903); so với năm 2010, số HTX giảm 14,3%, xã viên giảm 24,9%, vốn điều lệ tăng 27%, số đầu xe giảm 25%. Các HTX hoạt động tương đối ổn định theo mô hình dịch vụ, vận chuyển hàng hóa, hành khách, hợp đồng du lịch, tạo thêm việc làm và thu nhập cho thành viên; từ đó có nhiều hợp tác xã hoạt động hiệu quả như: HTX vận tải Bình Dương, Minh Giang, vận tải Bến Cát…Thu nhập lao động bình quân từ 5 đến 5,5 triệu đồng/người/tháng.

3. Tiểu thủ Công nghiệp: Có 10 HTX (giảm 02 HTX), với 268 thành viên, vốn điều lệ 124,4 tỷ đồng; so với năm 2010, số HTX tăng 14,2%, thành viên tăng 33%, vốn điều lệ tăng 3,3 lần. Các HTX mở rộng đầu tư, áp dụng các kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào trong hoạt động sản xuất mang lại hiệu quả cao như: HTX Phước Thành, HTX Thép Toàn Lực…Giải quyết việc làm cho hơn 1.200 lao động, thu nhập bình quân từ 3,5 đến 4 triệu đồng/người/ tháng.

4. Xây dựng: Có 13 HTX (tăng 02 HTX) với 210 xã viên, vốn điều lệ 50 tỷ đồng; so với năm 2010, số HTX tăng 27%, thành viên giảm 36%, vốn điều lệ tăng 2,5 lần. Các HTX hoạt động tập trung trong các lĩnh vực như: Thi công hạ tầng kỹ thuật các khu- cụm công nghiệp, san lấp mặt bằng, thi công công trình dân dụng đường giao thông…Một số HTX tổ chức liên kết với các doanh nghiệp để tổ chức thi công các công trình nhằm giải quyết việc làm cho 673 thành viên và người lao động. Các HTX khá trước đây tiếp tục duy trì hoạt động như: Thanh Long, Công Minh, Công Thành… Tuy nhiên các HTX chỉ đảm nhận những công trình xây dựng với quy mô nhỏ không qua đấu thầu. Thu nhập của người lao động bình quân từ 04 đến 4,5 triệu đồng/người/tháng.

5. Thương mại - Dịch vụ: Có 32 HTX (tăng 13 HTX), với 908 thành viên, vốn điều lệ 94,5 tỷ đồng; so với năm 2010, số HTX tăng 68,4%, thành viên tăng 2,5 lần, vốn điều lệ tăng 9,3 lần. Hoạt động kinh doanh các lĩnh vực như: thu mua, chế biến tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu mủ cao su; các dịch vụ khác như thu gom rác thải sinh hoạt, chăm sóc cây cảnh, vệ sinh nhà cửa theo hợp đồng… đây là những dịch vụ mới đã được các HTX DV-MT Đông Hòa, HTX môi trường Hiệp An hoạt động có hiệu quả, góp phần giải quyết việc làm cho thành viên và hạn chế ô nhiễm môi trường, tạo thu nhập ổn định cho xã viên, người lao động từ 3,5 đến 4 triệu đồng/người/tháng.

6. Quỹ tín dụng nhân dân: 10 Quỹ tín dụng (QTD) nhân dân hoạt động ổn định nhất trong các loại hình kinh tế tập thể, số thành viên là 52.786 - tăng 138%, vốn điều lệ 81,7 tỷ đồng, tổng nguồn vốn hoạt động là 1.491 tỷ đồng, tăng 214% (so với năm 2010); hàng năm dư nợ cho vay trên 700 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu hàng năm bình quân 1,3% trên tổng dư nợ, đã giải quyết được 13.365 lượt vay vốn, từ đó góp phần hạn chế được tình trạng cho vay nặng lãi ở địa phương. Các QTD duy trì phối hợp với các đoàn thể ký kết hợp đồng trách nhiệm để cho vay tín chấp, giúp cho hàng ngàn lượt hộ nghèo là thành viên không có tài sản thế chấp được vay vốn để sản xuất kinh doanh, thu nhập ổn định góp phần thiết thực trong công tác giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo ở địa phương. Khó khăn hiện nay của 9/10 QTD (trừ Quỹ tín dụng nhân dân Phú Thọ) là đang xây dựng phương án xử lý về địa bàn hoạt động, tỷ lệ góp vốn của thành viên, thành viên đăng ký hộ khẩu thường trú ngoài địa bàn theo Thông tư số 04/TT-NHNN ngày 31/3/2015 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

III. NHỮNG THUẬN LỢI KHÓ KHĂN VÀ NGUYÊN NHÂN

1. Thuận lợi:

1.1. Nhận thức về kinh tế tập thể ngày càng được khẳng định về vị trí trong nền kinh tế của tỉnh Bình Dương. Bình quân hàng năm phát triển mới 10% số HTX; các HTX không ngừng được củng cố và hoạt động mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, ổn định đời sống nhân dân.

1.2. Kinh tế tập thể ngày càng có khả năng đóng góp lớn vào nền kinh tế của tỉnh từ 2 nguồn: trực tiếp từ kinh tế tập thể, gián tiếp từ kinh tế hộ thành viên, nông dân trong khu vực HTX, thành viên tổ hợp tác; từng bước kinh tế tập thể là hạt nhân thu hút, là chỗ dựa cho kinh tế hộ.

1.3. Kinh tế tập thể góp phần tăng thu nhập và giải quyết việc làm cho người lao động. Các HTX thu hút khoảng 8.000 lao động, thu nhập bình quân đạt 42 triệu/người/năm. Các Qũy Tín dụng nhân dân đã giải quyết cho 13.365 lượt thành viên, người lao động vay vốn để sản xuất, kinh doanh với dư nợ cho vay hàng năm trên 700 tỷ.

2. Khó khăn: Tuy có những chuyển biến tích cực nhưng kinh tế tập thể có lúc, có nơi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém, năng lực và hiệu quả hoạt động còn nhiều hạn chế:

2.1. Còn nhiều HTX hoạt động sản xuất kinh doanh ở mức trung bình và yếu kém (tập trung phần lớn ở các HTX nông nghiệp). Các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động theo mô hình dịch vụ hỗ trợ thuần tuý, quy mô nhỏ, năng lực nội tại yếu cả về vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ sản xuất, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu.

2.2. Còn một số HTX hoạt động chưa đúng Luật hợp tác xã năm 2012; chế độ thông tin báo cáo, hội họp, học tập, nghĩa vụ thành viên thực hiện chưa tốt; phát triển HTX theo các mô hình mới, có hiệu quả chưa được quan tâm chú trọng; đặc biệt vẫn còn 59% số HTX chưa có trụ sở làm việc. Hoạt động của các HTX còn tách biệt nhau, thiếu gắn bó và liên kết giữa các hợp tác xã với hợp tác xã hoặc hợp tác xã với các thành phần kinh tế khác; nên chưa tạo sức mạnh để cạnh tranh trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay, chưa thành lập được Liên hiệp các hợp tác xã trên địa bàn tỉnh.

[...]