Kế hoạch 204/KH-UBND năm 2020 về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025) do tỉnh Vĩnh Phúc ban hành
Số hiệu | 204/KH-UBND |
Ngày ban hành | 29/12/2020 |
Ngày có hiệu lực | 29/12/2020 |
Loại văn bản | Kế hoạch |
Cơ quan ban hành | Tỉnh Vĩnh Phúc |
Người ký | Lê Duy Thành |
Lĩnh vực | Đầu tư,Thương mại |
ỦY BAN
NHÂN DÂN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 204/KH-UBND |
Vĩnh Phúc, ngày 29 tháng 12 năm 2020 |
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM (2021-2025)
Căn cứ Nghị quyết số 08/2020/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 của HĐND tỉnh về Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025), UBND tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025), cụ thể như sau:
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 5 NĂM (2016-2020)
I. BỐI CẢNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016-2020
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 của tỉnh được thực hiện trong bối cảnh kinh tế thế giới nhìn chung có nhiều yếu tố thuận lợi: kinh tế thế giới có sự phục hồi từ cuối năm 2016; các nền kinh tế lớn và phát triển gồm Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản,… tuy có nhiều bất định về chính sách nhưng đạt mức tăng trưởng tương đối khá; xu thế liên kết và tự do hóa thương mại tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, tăng trưởng thương mại thế giới có chiều hướng tích cực.
Ở trong nước, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 2016-2020 được ban hành và tổ chức triển khai một cách quyết liệt, mạnh mẽ, khơi thông nhiều điểm nghẽn cho phát triển. Sau gần 35 năm đổi mới, thế và lực nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều: tăng trưởng GDP được cải thiện đáng kể, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, lạm phát được kiểm soát; các đột phá chiến lược được thực hiện và thu được kết quả bước đầu; kết cấu hạ tầng được từng bước đầu tư đồng bộ; các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội được quan tâm; quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường có những chuyển biến nhất định; quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Trong tỉnh, giai đoạn 2016-2020 tiếp tục kế thừa những thành tựu đạt được của 20 năm tái lập tỉnh với nhiều bài học và kinh nghiệm quý. Vị thế của tỉnh so với các địa phương khác trong vùng và cả nước đã và đang tiếp tục được khẳng định. Sự đoàn kết, thống nhất trong chỉ đạo, điều hành và sự năng động, sáng tạo, quyết liệt trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục được phát huy. Các văn bản quan trọng định hướng cho sự phát triển lâu dài của tỉnh đã được phê duyệt như: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050… Hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có nhiều cơ hội đầu tư, mở rộng thị trường, nâng cao trình độ quản lý.
Kinh tế thế giới có những diễn biến phức tạp, khó lường, đan xen lẫn nhau; Xung đột vũ trang xảy ra ở một số khu vực ; đối đầu về chính sách thương mại giữa các khu vực, quốc gia tăng lên nhất là cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã kéo theo hàng loạt động thái lớn về chính sách của các quốc gia, nền kinh tế lớn trên thế giới ,… Sự bùng phát dịch bệnh Covid -19 trên toàn thế giới với diễn biến ngày càng trở nên phức tạp từ đầu năm 2020 có tác động không nhỏ tới phát triển kinh tế - xã hội thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Các nước trên thế giới đã và đang áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội, gây ra gián đoạn chuỗi cung ứng và sản xuất toàn cầu, làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.
Trong nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm; khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động; nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều rủi ro như nợ công, nợ xấu; một số quy định của hệ thống pháp luật, chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu và thực thi chưa nghiêm; tiến độ thực hiện nhiều công trình lớn còn chậm, chưa phát huy hiệu quả; văn hóa - xã hội xuất hiện những vấn đề bức xúc; ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi có xu hướng gia tăng nhưng công tác xử lý còn bất cập; tai, tệ nạn xã hội còn diễn biến khó lường... Dịch bệnh Covid -19 xảy ra năm 2020 tác động lớn đến kinh tế xã hội của cả nước; bên cạnh đó dịch tả lợn Châu Phi đã làm ngành chăn nuôi suy giảm, giá thịt lợn tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân,...
Trong tỉnh còn nhiều vấn đề gặp khó khăn, vướng mắc kéo dài chưa được giải quyết triệt để như: công tác bồi thường giải phóng mặt bằng còn chậm; ô nhiễm môi trường có xu hướng gia tăng; thu nhập bình quân đầu người còn thấp; kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội chưa hiện đại; chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển; lợi thế cạnh tranh về vị trí địa lý của tỉnh so với các địa phương lân cận như Hà Nam, Bắc Ninh, Thái Nguyên,... suy giảm.
II. KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016-2020
1.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Giai đoạn 2016-2019, tình hình kinh tế trong và ngoài nước có nhiều thuận lợi, do đó kinh tế của tỉnh có mức tăng trưởng GRDP ở mức khá với tốc độ tăng bình quân 8,16%/năm. Quy mô nền kinh tế tiếp tục được mở rộng, GRDP năm 2019 (giá hiện hành) đạt 118.958 tỷ đồng.
Tuy nhiên, trong năm 2020 đại dịch Covid-19 đã xuất hiện và bùng phát trên phạm vi toàn cầu, ảnh hưởng nặng nề đến tất cả các lĩnh vực, dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế thế giới nghiêm trọng nhất kể từ sau đại khủng hoảng 1929-1933. Với tỷ trọng khu vực vốn đầu tư nước ngoài cao, đã và đang hội nhập sâu rộng, có độ mở lớn nhưng tính tự chủ và khả năng chống chịu còn hạn chế nên kinh tế của tỉnh đã chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi đại dịch, do đó tăng trưởng năm 2020 ước đạt 2,21%, giá trị GRDP (giá hiện hành) đạt 122.641 tỷ đồng, gấp 1,56 lần so với năm 2015, đạt mục tiêu đề ra (đến năm 2020: gấp 1,5 lần so với năm 2015).
Theo đó, tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh bình quân 5 năm giai đoạn 2016-2020 ước tăng 6,86%/năm, thấp hơn so với mục tiêu đã đề ra (tăng 7-7,5%/năm), trong đó: Ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 10,4%/năm vượt xa so với mục tiêu đề ra (tăng 7-7,5%/năm) và tiếp tục là ngành có đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh; Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản do chịu tác động của thời tiết bất thường, dịch bệnh xảy ra trên cả cây trồng, vật nuôi, giá cả thị trường nông sản không ổn định… nên tốc độ tăng trưởng bình quân chỉ đạt 1,9%/năm, thấp hơn mục tiêu đề ra (tăng 3,5-4%/năm); Ngành dịch vụ tăng trưởng chậm và chịu tác động rất mạnh bởi đại dịch Covid-19 nên ước bình quân giai đoạn 2016-2020 tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 6,0%/năm, thấp hơn mức tăng trưởng 6,67%/năm giai đoạn 2011-2015 và thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là 10,5-11%.
Bảng 1: Ước thực hiện tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020
TT |
Chỉ tiêu |
Tốc độ tăng trưởng (%)/năm |
Đánh giá |
||
Thực hiện giai đoạn 2011-2015 |
Giai đoạn 2016-2020 |
||||
Kế hoạch |
Ước thực hiện |
||||
|
GRDP |
6,10 |
7-7,5 |
6,86 |
Không đạt |
1 |
Khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản |
3,14 |
3,5-4 |
1,9 |
Không đạt |
2 |
Khu vực công nghiệp - xây dựng |
10,15 |
7-7,5 |
10,4 |
Vượt |
3 |
Khu vực dịch vụ |
6,67 |
10,5-11 |
6,0 |
Không đạt |
4 |
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm |
2,21 |
3,0 |
3,3 |
Vượt |
Cơ cấu kinh tế của tỉnh giai đoạn 2016-2020 tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực. Khu vực công nghiệp và xây dựng tiếp tục giữ vai trò đầu tàu trong tăng trưởng kinh tế và giữ tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu GRDP của tỉnh, năm 2019 tỷ trọng khu vực này chiếm đến 62,42% và ước đến năm 2020 chiếm 61,95% tổng giá trị tăng thêm của ba khu vực kinh tế, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra (đến năm 2020: 61,5%). Tỷ trọng hai khu vực kinh tế còn lại là dịch vụ và nông, lâm nghiệp, thủy sản đều theo hướng giảm, trong đó: Khu vực dịch vụ giảm từ 32,22% năm 2016 xuống 30,22% năm 2019 và do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên đến năm 2020 tỷ trọng khu vực này ước chỉ chiếm 29,82% tổng giá trị tăng thêm các ngành kinh tế, không đạt mục tiêu kế hoạch (đến năm 2020: chiếm 31,4%); Tỷ trọng khu vực nông, lâm thủy sản giảm nhanh từ mức 10,14% tổng giá trị tăng thêm năm 2016 xuống chỉ còn 7,37% năm 2019 và dự kiến đến năm 2020 tỷ trọng của khu vực này chiếm khoảng 8,23% tổng giá trị tăng thêm các ngành kinh tế, không đạt mục tiêu kế hoạch (đến năm 2020: còn 7,1%). Nguyên nhân chính dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra là do năm 2020 đại dịch Covid-19 xảy ra, các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng rất thấp dẫn đến tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ giảm so dự kiến đề ra.
Bảng 2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2015-2020
TT |
Chỉ tiêu |
Mục tiêu KH đến năm 2020 |
Thực hiện 2015 |
Ước TH 2020 |
Đánh giá |
1 |
GRDP (tỷ đồng, giá hiện hành) |
1,5-2 lần so với năm 2015 |
78.644,3 |
122.640,8 |
Đạt |
|
Tổng giá trị gia tăng |
|
54.888,6 |
91.322,21 |
|
|
NLTS |
|
5.787,4 |
7.519,94 |
|
|
CN-XD |
|
31.546,6 |
56.570,74 |
|
|
Dịch vụ |
|
17.554,56 |
27.231,53 |
|
2 |
Cơ cấu GDP (%) |
|
|
|
|
|
Tổng giá trị gia tăng |
100,0 |
100,0 |
100,0 |
|
|
NLTS |
7,1 |
10,54 |
8,23 |
Không đạt |
|
CN-XD |
61,5 |
57,47 |
61,95 |
Đạt |
|
Dịch vụ |
31,4 |
31,98 |
29,82 |
Không đạt |
Năng suất lao động có sự cải thiện so với giai đoạn trước. Tính đến năm 2019, năng suất lao động của tỉnh đạt 186,63 triệu đồng/lao động, gấp 1,7 lần so với năng suất lao động trung bình của cả nước (110,4 triệu đồng/lao động). Dự kiến đến năm 2020, năng suất lao động của tỉnh đạt 189,6 triệu đồng/lao động/năm. Tính trung bình, giai đoạn 2016-2020 tăng trưởng năng suất lao động dự kiến đạt 8,37%/năm, cao hơn mức bình quân chung cả nước (5,8%/năm).
Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp ngày càng tăng. Giai đoạn 2016-2019, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp có xu hướng tăng lên, ước tính đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 42,7%/năm. Đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng vẫn là yếu tố vốn. Tuy vậy, đóng góp TFP của tỉnh vẫn thấp hơn mức dự kiến của cả nước giai đoạn 2016-2019 là 44,46%.
GRDP bình quân đầu người tiếp tục tăng trưởng, vượt mức bình quân của cả nước. Tính đến năm 2019, GRDP bình quân đầu người của tỉnh Vĩnh Phúc (giá hiện hành) đạt 103,1 triệu đồng/người (tương đương 4.450 USD), cao gấp 1,6 lần so với mức trung bình của cả nước (2.800 USD), đứng 5/11 tỉnh thuộc Vùng Đồng bằng sông Hồng và đứng vị trí thứ 9/63 tỉnh/thành phố cả nước. Dự kiến đến năm 2020, GRDP bình quân đầu người toàn tỉnh dự kiến đạt 104,7 triệu đồng/người, cao gấp 1,45 lần so với GRDP bình quân đầu người năm 2015, tăng bình quân 7,7%/năm.
ỦY BAN
NHÂN DÂN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 204/KH-UBND |
Vĩnh Phúc, ngày 29 tháng 12 năm 2020 |
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM (2021-2025)
Căn cứ Nghị quyết số 08/2020/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 của HĐND tỉnh về Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025), UBND tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025), cụ thể như sau:
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 5 NĂM (2016-2020)
I. BỐI CẢNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016-2020
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 của tỉnh được thực hiện trong bối cảnh kinh tế thế giới nhìn chung có nhiều yếu tố thuận lợi: kinh tế thế giới có sự phục hồi từ cuối năm 2016; các nền kinh tế lớn và phát triển gồm Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản,… tuy có nhiều bất định về chính sách nhưng đạt mức tăng trưởng tương đối khá; xu thế liên kết và tự do hóa thương mại tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, tăng trưởng thương mại thế giới có chiều hướng tích cực.
Ở trong nước, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 2016-2020 được ban hành và tổ chức triển khai một cách quyết liệt, mạnh mẽ, khơi thông nhiều điểm nghẽn cho phát triển. Sau gần 35 năm đổi mới, thế và lực nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều: tăng trưởng GDP được cải thiện đáng kể, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, lạm phát được kiểm soát; các đột phá chiến lược được thực hiện và thu được kết quả bước đầu; kết cấu hạ tầng được từng bước đầu tư đồng bộ; các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội được quan tâm; quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường có những chuyển biến nhất định; quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Trong tỉnh, giai đoạn 2016-2020 tiếp tục kế thừa những thành tựu đạt được của 20 năm tái lập tỉnh với nhiều bài học và kinh nghiệm quý. Vị thế của tỉnh so với các địa phương khác trong vùng và cả nước đã và đang tiếp tục được khẳng định. Sự đoàn kết, thống nhất trong chỉ đạo, điều hành và sự năng động, sáng tạo, quyết liệt trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục được phát huy. Các văn bản quan trọng định hướng cho sự phát triển lâu dài của tỉnh đã được phê duyệt như: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050… Hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có nhiều cơ hội đầu tư, mở rộng thị trường, nâng cao trình độ quản lý.
Kinh tế thế giới có những diễn biến phức tạp, khó lường, đan xen lẫn nhau; Xung đột vũ trang xảy ra ở một số khu vực ; đối đầu về chính sách thương mại giữa các khu vực, quốc gia tăng lên nhất là cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã kéo theo hàng loạt động thái lớn về chính sách của các quốc gia, nền kinh tế lớn trên thế giới ,… Sự bùng phát dịch bệnh Covid -19 trên toàn thế giới với diễn biến ngày càng trở nên phức tạp từ đầu năm 2020 có tác động không nhỏ tới phát triển kinh tế - xã hội thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Các nước trên thế giới đã và đang áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội, gây ra gián đoạn chuỗi cung ứng và sản xuất toàn cầu, làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.
Trong nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm; khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động; nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều rủi ro như nợ công, nợ xấu; một số quy định của hệ thống pháp luật, chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu và thực thi chưa nghiêm; tiến độ thực hiện nhiều công trình lớn còn chậm, chưa phát huy hiệu quả; văn hóa - xã hội xuất hiện những vấn đề bức xúc; ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi có xu hướng gia tăng nhưng công tác xử lý còn bất cập; tai, tệ nạn xã hội còn diễn biến khó lường... Dịch bệnh Covid -19 xảy ra năm 2020 tác động lớn đến kinh tế xã hội của cả nước; bên cạnh đó dịch tả lợn Châu Phi đã làm ngành chăn nuôi suy giảm, giá thịt lợn tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân,...
Trong tỉnh còn nhiều vấn đề gặp khó khăn, vướng mắc kéo dài chưa được giải quyết triệt để như: công tác bồi thường giải phóng mặt bằng còn chậm; ô nhiễm môi trường có xu hướng gia tăng; thu nhập bình quân đầu người còn thấp; kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội chưa hiện đại; chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển; lợi thế cạnh tranh về vị trí địa lý của tỉnh so với các địa phương lân cận như Hà Nam, Bắc Ninh, Thái Nguyên,... suy giảm.
II. KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016-2020
1.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Giai đoạn 2016-2019, tình hình kinh tế trong và ngoài nước có nhiều thuận lợi, do đó kinh tế của tỉnh có mức tăng trưởng GRDP ở mức khá với tốc độ tăng bình quân 8,16%/năm. Quy mô nền kinh tế tiếp tục được mở rộng, GRDP năm 2019 (giá hiện hành) đạt 118.958 tỷ đồng.
Tuy nhiên, trong năm 2020 đại dịch Covid-19 đã xuất hiện và bùng phát trên phạm vi toàn cầu, ảnh hưởng nặng nề đến tất cả các lĩnh vực, dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế thế giới nghiêm trọng nhất kể từ sau đại khủng hoảng 1929-1933. Với tỷ trọng khu vực vốn đầu tư nước ngoài cao, đã và đang hội nhập sâu rộng, có độ mở lớn nhưng tính tự chủ và khả năng chống chịu còn hạn chế nên kinh tế của tỉnh đã chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi đại dịch, do đó tăng trưởng năm 2020 ước đạt 2,21%, giá trị GRDP (giá hiện hành) đạt 122.641 tỷ đồng, gấp 1,56 lần so với năm 2015, đạt mục tiêu đề ra (đến năm 2020: gấp 1,5 lần so với năm 2015).
Theo đó, tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh bình quân 5 năm giai đoạn 2016-2020 ước tăng 6,86%/năm, thấp hơn so với mục tiêu đã đề ra (tăng 7-7,5%/năm), trong đó: Ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 10,4%/năm vượt xa so với mục tiêu đề ra (tăng 7-7,5%/năm) và tiếp tục là ngành có đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh; Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản do chịu tác động của thời tiết bất thường, dịch bệnh xảy ra trên cả cây trồng, vật nuôi, giá cả thị trường nông sản không ổn định… nên tốc độ tăng trưởng bình quân chỉ đạt 1,9%/năm, thấp hơn mục tiêu đề ra (tăng 3,5-4%/năm); Ngành dịch vụ tăng trưởng chậm và chịu tác động rất mạnh bởi đại dịch Covid-19 nên ước bình quân giai đoạn 2016-2020 tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 6,0%/năm, thấp hơn mức tăng trưởng 6,67%/năm giai đoạn 2011-2015 và thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là 10,5-11%.
Bảng 1: Ước thực hiện tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020
TT |
Chỉ tiêu |
Tốc độ tăng trưởng (%)/năm |
Đánh giá |
||
Thực hiện giai đoạn 2011-2015 |
Giai đoạn 2016-2020 |
||||
Kế hoạch |
Ước thực hiện |
||||
|
GRDP |
6,10 |
7-7,5 |
6,86 |
Không đạt |
1 |
Khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản |
3,14 |
3,5-4 |
1,9 |
Không đạt |
2 |
Khu vực công nghiệp - xây dựng |
10,15 |
7-7,5 |
10,4 |
Vượt |
3 |
Khu vực dịch vụ |
6,67 |
10,5-11 |
6,0 |
Không đạt |
4 |
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm |
2,21 |
3,0 |
3,3 |
Vượt |
Cơ cấu kinh tế của tỉnh giai đoạn 2016-2020 tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực. Khu vực công nghiệp và xây dựng tiếp tục giữ vai trò đầu tàu trong tăng trưởng kinh tế và giữ tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu GRDP của tỉnh, năm 2019 tỷ trọng khu vực này chiếm đến 62,42% và ước đến năm 2020 chiếm 61,95% tổng giá trị tăng thêm của ba khu vực kinh tế, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra (đến năm 2020: 61,5%). Tỷ trọng hai khu vực kinh tế còn lại là dịch vụ và nông, lâm nghiệp, thủy sản đều theo hướng giảm, trong đó: Khu vực dịch vụ giảm từ 32,22% năm 2016 xuống 30,22% năm 2019 và do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên đến năm 2020 tỷ trọng khu vực này ước chỉ chiếm 29,82% tổng giá trị tăng thêm các ngành kinh tế, không đạt mục tiêu kế hoạch (đến năm 2020: chiếm 31,4%); Tỷ trọng khu vực nông, lâm thủy sản giảm nhanh từ mức 10,14% tổng giá trị tăng thêm năm 2016 xuống chỉ còn 7,37% năm 2019 và dự kiến đến năm 2020 tỷ trọng của khu vực này chiếm khoảng 8,23% tổng giá trị tăng thêm các ngành kinh tế, không đạt mục tiêu kế hoạch (đến năm 2020: còn 7,1%). Nguyên nhân chính dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra là do năm 2020 đại dịch Covid-19 xảy ra, các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng rất thấp dẫn đến tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ giảm so dự kiến đề ra.
Bảng 2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2015-2020
TT |
Chỉ tiêu |
Mục tiêu KH đến năm 2020 |
Thực hiện 2015 |
Ước TH 2020 |
Đánh giá |
1 |
GRDP (tỷ đồng, giá hiện hành) |
1,5-2 lần so với năm 2015 |
78.644,3 |
122.640,8 |
Đạt |
|
Tổng giá trị gia tăng |
|
54.888,6 |
91.322,21 |
|
|
NLTS |
|
5.787,4 |
7.519,94 |
|
|
CN-XD |
|
31.546,6 |
56.570,74 |
|
|
Dịch vụ |
|
17.554,56 |
27.231,53 |
|
2 |
Cơ cấu GDP (%) |
|
|
|
|
|
Tổng giá trị gia tăng |
100,0 |
100,0 |
100,0 |
|
|
NLTS |
7,1 |
10,54 |
8,23 |
Không đạt |
|
CN-XD |
61,5 |
57,47 |
61,95 |
Đạt |
|
Dịch vụ |
31,4 |
31,98 |
29,82 |
Không đạt |
Năng suất lao động có sự cải thiện so với giai đoạn trước. Tính đến năm 2019, năng suất lao động của tỉnh đạt 186,63 triệu đồng/lao động, gấp 1,7 lần so với năng suất lao động trung bình của cả nước (110,4 triệu đồng/lao động). Dự kiến đến năm 2020, năng suất lao động của tỉnh đạt 189,6 triệu đồng/lao động/năm. Tính trung bình, giai đoạn 2016-2020 tăng trưởng năng suất lao động dự kiến đạt 8,37%/năm, cao hơn mức bình quân chung cả nước (5,8%/năm).
Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp ngày càng tăng. Giai đoạn 2016-2019, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp có xu hướng tăng lên, ước tính đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 42,7%/năm. Đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng vẫn là yếu tố vốn. Tuy vậy, đóng góp TFP của tỉnh vẫn thấp hơn mức dự kiến của cả nước giai đoạn 2016-2019 là 44,46%.
GRDP bình quân đầu người tiếp tục tăng trưởng, vượt mức bình quân của cả nước. Tính đến năm 2019, GRDP bình quân đầu người của tỉnh Vĩnh Phúc (giá hiện hành) đạt 103,1 triệu đồng/người (tương đương 4.450 USD), cao gấp 1,6 lần so với mức trung bình của cả nước (2.800 USD), đứng 5/11 tỉnh thuộc Vùng Đồng bằng sông Hồng và đứng vị trí thứ 9/63 tỉnh/thành phố cả nước. Dự kiến đến năm 2020, GRDP bình quân đầu người toàn tỉnh dự kiến đạt 104,7 triệu đồng/người, cao gấp 1,45 lần so với GRDP bình quân đầu người năm 2015, tăng bình quân 7,7%/năm.
1.2. Thực hiện cơ cấu lại của từng ngành, lĩnh vực
a) Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh duy trì được sự tăng trưởng ổn định ở mức cao, một số ngành công nghiệp chủ lực tiếp tục được phát triển, nhiều sản phẩm công nghiệp tăng trưởng khá. Giai đoạn 2016-2019, tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành công nghiệp đạt 12,64%/năm, cao hơn so với mức tăng 9,63%/năm của giai đoạn 2011-2015, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 28%/năm, đây là ngành có sự phục hồi tốt sau sự giảm sút trong giai đoạn 2011-2015; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14%/năm, đây là ngành chiếm tỷ trọng chủ yếu trong khu vực sản xuất công nghiệp của tỉnh (năm 2019 ngành này chiếm 96,44% giá trị gia tăng ngành công nghiệp); Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước tăng 24,3%/năm, cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,7%/năm. Ngoại trừ hoạt động cung cấp nước quản lý và xử lý rác thải, nước thải, các ngành công nghiệp khác đều tăng trưởng tốt hơn so với giai đoạn 2011-2015. Năm 2020, ngành công nghiệp của tỉnh gặp rất nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm, vì vậy dự kiến tăng trưởng của ngành tăng 3,08% so với năm 2019, theo đó tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp giai đoạn 2016-2020 đạt bình quân 10,44%/năm, vượt mức tiêu kế hoạch đề ra (7-7,5%/năm) và tiếp tục đóng vai trò là động lực cho tăng trưởng kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Các sản phẩm công nghiệp ngày càng tăng về số lượng và chủng loại. Trong kỳ đã xuất hiện một số sản phẩm mới được sản xuất như: linh kiện điện tử, điều hoà, tủ lạnh, thuốc chữa bệnh... Nhiều sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh có mức tăng khá, trong đó linh kiện điện tử là ngành mới phát triển và có mức tăng doanh thu cao nhất bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 50,79%/năm; sản lượng ô tô tăng 3,46%/năm, xe máy tăng 0,15%/năm; gạch ốp lát tăng 18,86 %/năm; sắt thép các loại tăng 34,86%/năm; giày dép thể thao tăng 10,9%/năm,... Sản phẩm ô tô, xe máy mặc dù có sự suy giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh (năm 2016 chiếm 56,46% và đến năm 2019 chỉ còn 31%) do thị trường xe máy đang ở mức bão hòa, sản phẩm ô tô sản xuất trong nước luôn phải cạnh tranh với thị trường xe nhập khẩu đang rất dồi dào về nguồn cung, giá thành ngày càng giảm do được hưởng ưu đãi về thuế nên nhiều doanh nghiệp chuyển dần sang nhập khẩu. Thay vào đó, ngành sản xuất linh kiện điện tử là ngành có sự phát triển khá nhanh, năm 2015 ngành này chỉ chiếm 10,68% giá trị công nghiệp nhưng đến năm 2019 đã chiếm tới gần 40% giá trị công nghiệp và đóng góp lớn cho tăng trưởng chung của tỉnh. Ngành sản xuất gạch ốp lát và ngành sản xuất kim loại chiếm gần 15%. Các ngành công nghiệp còn lại chiếm khoảng 15% giá trị công nghiệp. Công nghiệp hỗ trợ được hình thành và từng bước phát triển, nhất là công nghiệp hỗ trợ cho công nghiệp cơ khí chế tạo và công nghiệp điện tử - tin học. Sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp hỗ trợ đã góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp chủ lực tiếp tục phát triển, đóng một phần đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu và nâng cao tỉ lệ nội địa hóa.
Về phát triển các khu công nghiệp: Giai đoạn 2016- 2020 tỉnh đã thành lập và cấp mới 01 dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp Bá Thiện - phân khu 1 với quy mô 325,75 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 2.417 tỷ đồng(1). Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 09 khu công nghiệp được thành lập và cấp giấy chứng nhận đầu tư, trong đó có 08 khu đã đi vào hoạt động và 1 khu đang thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng với tổng vốn đầu tư đăng ký 8.031,8 tỷ đồng(2) và 117,42 triệu USD, tổng diện tích đất quy hoạch là 1.838,75 ha (trong đó đất công nghiệp theo quy hoạch 1.353,72 ha); tổng diện tích đất công nghiệp đã bồi thường giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng 1.007,23 ha, diện tích đất đã cho thuê 865,88 ha; tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp quy hoạch đạt 63,96% và tỷ lệ lấp đầy theo diện tích đất công nghiệp đã bồi thường và xây dựng hạ tầng đạt 85,97%. Nhìn chung, các khu công nghiệp của tỉnh được bố trí tập trung gần các đô thị lớn, gần thủ đô Hà Nội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào ngày càng được hoàn thiện đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Một số khu đã được chủ động xây dựng, tạo ra quỹ đất sạch với mức giá cho thuê hạ tầng hợp lý, tạo được lợi thế cạnh tranh với các tỉnh thành lân cận như: khu công nghiệp Bá Thiện, Bá Thiện II, Bình Xuyên II, đặc biệt năm 2018 khu công nghiệp Thăng Long Vĩnh Phúc đi vào hoạt động đã tạo cơ hội tốt để thu hút các dự án đầu tư vào tỉnh. Các dự án trong các khu công nghiệp của tỉnh như: Piaggio VN, VPIC1; Partron Vina; Jahwa Vina; Haesung Vina, Exedy, Strong Way, Prime Group... đã và đang sản xuất ra những sản phẩm công nghiệp chủ lực, tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, góp phần tăng thu ngân sách, trong đó: các dự án FDI đã đóng góp hơn 2,8 tỷ USD vào giá trị tăng thêm của tỉnh, nộp ngân sách hơn 11,6 nghìn tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 41 nghìn lao động; các dự án DDI đóng góp hơn 5,1 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách hơn 1,5 nghìn tỷ đồng và giải quyết việc làm mới cho trên 1,58 nghìn lao động.
Hạ tầng các cụm công nghiệp ngày càng được hoàn thiện. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 18 cụm công nghiệp đã được hình thành và thành lập với tổng diện tích 376,4 ha, trong đó 13 cụm công nghiệp được thành lập và giao chủ đầu tư xây dựng (11 cụm đã thu hút đầu tư), 05 cụm công nghiệp được coi là hình thành (3), tổng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật của các cụm công nghiệp là 262,9 tỷ đồng. Nhìn chung, các cụm công nghiệp được giải phóng mặt bằng cơ bản đã triển khai đầu tư hạ tầng và cho thuê đất. Các doanh nghiệp đầu tư sản xuất trong cụm công nghiệp là các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, các hộ sản xuất là chủ yếu. Việc đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp đã giải quyết một phần nhu cầu mặt bằng sản xuất cho các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở khu vực nông thôn; đưa dần các cơ sở sản xuất ở các khu dân cư, trong các làng nghề vào khu vực sản xuất tập trung có đầu tư hạ tầng đồng bộ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường khu dân cư.
b) Sản xuất nông lâm nghiệp thủy sản
Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp tiếp tục được tỉnh tập trung chỉ đạo triển khai, qua đó nhiều chính sách đã thực sự đi vào cuộc sống, được nông dân đón nhận và mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn. Bình quân giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng trưởng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 1,9%/năm. Cơ cấu giá trị sản xuất chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi từ 52,2% năm 2015 lên 51,1% năm 2020, giảm tỷ trọng trồng trọt từ 41,7% năm 2015 xuống còn 35,5% năm 2020; cơ cấu ngành lâm nghiệp, thủy sản, dịch vụ nông nghiệp cơ bản ổn định, trong đó lâm nghiệp chiếm 1,1%, thủy sản chiếm 7,0% và dịch vụ chiếm 5,3%. Kết quả cụ thể các lĩnh vực như sau:
b.1. Về sản xuất nông nghiệp
Sản xuất trồng trọt những năm qua chuyển dịch mạnh cơ cấu giống, cây trồng, mùa vụ theo hướng sản xuất hàng hóa, phù hợp với điều kiện các vùng sinh thái và địa phương trong tỉnh; đã hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn; các cây trồng có giá trị kinh tế cao được mở rộng diện tích; cơ giới hóa được áp dụng ở hầu hết các khâu trong sản xuất. Sản phẩm trồng trọt đã đảm bảo về nhu cầu lương thực, thực phẩm trong tỉnh, góp phần phát triển chăn nuôi và cung cấp hàng hóa cho thị trường các tỉnh trong cả nước và một phần xuất khẩu. Tốc độ tăng giá trị sản xuất trồng trọt bình quân giai đoạn 2016-2020 (giá SS 2010) đạt 0,37%/năm.
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm giảm bình quân 2,44%/năm do chuyển đổi một phần diện tích để xây dựng khu, cụm công nghiệp, hạ tầng giao thông, dịch vụ... Năng suất hầu hết các loại cây trồng đều tăng nhờ áp dụng các tiến bộ mới về giống, kỹ thuật canh tác, trong đó năng suất lúa tăng 0,98%/năm, ngô tăng 2,13%/năm, rau các loại tăng 1,96%/năm... Nhiều giống lúa mới có năng suất, chất lượng được đưa vào sản xuất như: RVT, TBR225, BC15, Thiên ưu 8,... Ước đến hết năm 2020 tỷ lệ giống lúa chất lượng đạt trên 75% tổng diện tích gieo trồng lúa trên toàn tỉnh, tăng 38,5% so với năm 2015. Cơ giới hóa trong khâu làm đất chiếm 95% tổng diện tích, thu hoạch lúa bằng máy đạt trên 70%.
Diện tích trồng cây lâu năm giảm nhẹ, bình quân giảm 0,15%/năm, dao động ở diện tích 8.240 - 8.310 ha; diện tích của một số cây trồng có giá trị như: thanh long ruột đỏ, bưởi, na,... tăng dần qua các năm.
Giai đoạn 2016- 2020 đã chuyển đổi được trên 6.300 ha đất trồng lúa kem hiệu quả sang trồng các loại rau, củ, quả cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất canh tác đạt trên 145 triệu đồng/ha, tăng trên 6,0% so với năm 2015; thu nhập đạt khoảng 65 triệu đồng/ha đất canh tác, tăng 7,5% so với năm 2015.
Hình thành một số vùng sản xuất rau, quả an toàn thực phẩm theo quy trình VietGAP đạt trên 1.600 ha; trong đó có 987 ha rau an toàn được cấp chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm và 695 ha rau sản xuất theo VietGAP, sản lượng rau an toàn và rau được cấp giấy chứng nhận ước đạt 40 nghìn tấn /năm (bằng 25% tổng sản lượng rau toàn tỉnh), đã vận hành 08 nhà sơ chế rau an toàn tại các vùng thuộc dự án QSEAP, liên kết chuỗi với Công ty Vineco Tam Đảo. Các cây trồng có giá trị kinh tế cao như: Bí đỏ, bí xanh, cà chua, su su, dưa các loại được phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; một số sản phẩm có thương hiệu và có sản phẩm xuất khẩu như: Thanh long ruột đỏ, ớt quả, chuối tiêu hồng...; đã có nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất rau, củ, quả có quy mô, chất lượng cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh; mô hình sản xuất rau, quả theo chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ đang phát triển trên địa bàn tỉnh.
Sau khi thực hiện thành công thí điểm dồn thửa đổi ruộng tại 02 xã Ngũ Kiên và Cao Đại của huyện Vĩnh Tường, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch và chỉ đạo thực hiện trên phạm vi toàn tỉnh, kết quả từ năm 2017 đến nay đã có 1.842,94 ha trên địa bàn 5 huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên, Lập Thạch và Sông Lô được dồn thửa, đổi ruộng, qua đó đồng ruộng được đầu tư thiết kế lại, hệ thống giao thông, thủy lợi được nâng cấp đã tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương áp dụng cơ giới hóa đồng bộ, liên kết sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng ngành nông nghiệp.
Sản xuất chăn nuôi trên địa bàn tỉnh có thời điểm gặp khó khăn, giá một số sản phẩm bấp bênh, không ổn định; đặc biệt, đầu năm 2019 bệnh dịch tả lợn Châu Phi xảy ra và lây lan nhanh trên diện rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển chăn nuôi lợn. Nhưng, nhìn chung cả giai đoạn 2016-2020 ngành chăn nuôi của tỉnh có sự phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt chăn nuôi lợn, bò sữa và gia cầm đã trở thành thế mạnh của tỉnh, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi được áp dụng rộng rãi, nhiều giống gia súc, gia cầm có năng suất, chất lượng tốt được đưa vào sản xuất, đã nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản xuất, tăng giá trị gia tăng. Công tác phòng bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được thực hiện chủ động. Công tác quản lý, giám sát dịch bệnh được thực hiện chặt chẽ từ cơ sở. Giai đoạn 2016-2020, giá trị sản xuất chăn nuôi (giá SS 2010) tăng bình quân 3,23%/năm. Tỷ trọng ngành chăn nuôi trong giá trị sản xuất ngành nông nghiệp ước chiếm 54,5% và chiếm 51,1% trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành nông lâm thủy sản, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung ngành nông nghiệp của tỉnh.
Quy mô tổng đàn trâu và đàn lợn giảm (đàn trâu giảm bình quân 2,79%/năm, đàn lợn giảm 4,9%/năm); đàn bò, bò sữa và đàn gia cầm tăng mạnh (đàn bò tăng 0,3%/năm trong đó bò sữa tăng 11,1%/năm, đàn gia cầm tăng 6,7%/năm). Sản lượng thịt hơi các loại tăng bình quân 1,32%/năm (trong đó sản lượng thịt trâu và thịt lợn giảm, thịt bò, thịt gia cầm tăng), sản lượng trứng tăng 7,7%/năm, sữa tươi tăng 20,2%/năm.
Về cơ cấu giống vật nuôi: Đến nay 100% lợn nái sinh sản, lợn đực giống là lợn ngoại và lợn lai ngoại (Pi4, Maxter, Pi75), trọng lượng lợn hơi xuất chuồng bình quân tăng từ 80,5 kg/con (năm 2015) lên 93,5 kg/con (năm 2020). Tỷ lệ bò lai đạt trên 90%, đàn bò cái lai sinh sản được lai tạo với các giống bò ngoại chuyên thịt có năng suất, chất lượng cao như: Brahman, Droughtmaster, Red Agus, BBB… trọng lượng bò thịt xuất chuồng tăng từ 172,7 kg/con (năm 2015) lên 186 kg/con (năm 2020); 100% bò sữa là bò ngoại HF, năng suất sữa/chu kỳ đạt bình quân 5,5 tấn, khoảng 30% số bò sữa đã đạt 6 tấn/chu kỳ.
Trên địa bàn tỉnh đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung lớn như: Chăn nuôi lợn ở Lập Thạch, Yên Lạc; chăn nuôi gia cầm ở Tam Dương, Tam Đảo; chăn nuôi bò sữa tại Vĩnh Tường, Lập Thạch, Tam Đảo... Nhiều trang trại đã áp dụng công nghệ cao trong chăn nuôi và liên kết theo chuỗi từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm, trong đó đã xây dựng được 3 mô hình chuỗi liên kết thịt lợn với sản lượng gần 1.000 tấn/năm, thịt gà an toàn 81 tấn/năm và trứng gà sạch khoảng 2,9 triệu quả/năm.
b.2. Về thủy sản
Sản xuất thủy sản tiếp tục phát triển, từng bước đa dạng hóa về chủng loại nuôi trồng; diện tích nuôi thâm canh được mở rộng. Đã xuất hiện nhiều điển hình nuôi cá có hiệu quả cho lợi nhuận trên 100 triệu đồng/ha, gấp 2-3 lần so với mô hình nuôi cá truyền thống theo phương thức quảng canh cải tiến. Việc phát triển nuôi các đối tượng đặc sản như: cá Tầm, Ba Ba, nuôi trai nước ngọt lấy ngọc... cũng được người dân quan tâm đầu tư. Giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng giá trị sản xuất thủy sản (giá SS 2010) đạt 3,0%/năm. Giá trị sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản trên 1 ha năm 2020 ước đạt 170 triệu đồng/ha, tăng 11,3% so với năm 2015 (152,74 triệu đồng/ha).
Diện tích nuôi trồng thủy sản giảm nhẹ, bình quân giảm 0,18%/năm. Ước năm 2020 tổng diện tích nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh đạt 6.829 ha, tập trung chủ yếu ở các huyện như: Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên. Sản lượng thủy sản tăng bình quân 2,8%/năm, trong đó sản lượng nuôi trồng tăng bình quân 3,2%/năm, bình quân đạt 19,0 ngàn tấn/năm, chiếm khoảng 90,4% tổng sản lượng thủy sản của tỉnh. Sản lượng cá giống tăng dần qua các năm, bình quân đạt 2,74 tỷ con các loại/năm, tăng bình quân 1,8%/năm, đảm bảo nhu cầu con giống trong tỉnh và cung cấp cho các tỉnh khác như: Lào Cai, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Nội, Hưng Yên...
b.3. Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp phát triển ổn định, giai đoạn (2016-2020) tốc độ tăng giá trị sản xuất (giá SS 2010) đạt 3,97%/năm. Diện tích rừng trồng tập trung bình quân ước đạt 673,4 ha/năm, tăng 0,56%/năm; diện tích trồng cây phân tán đạt 1.255,4 ha/năm, tăng bình quân 25,5%/năm; khoán quản lý bảo vệ rừng duy trì mức 9,56 ngàn ha/năm; sản lượng gỗ khai thác đạt bình quân 39,9 nghìn m3/năm, tăng bình quân 4,19%/năm; gieo ươm cây giống đạt 4,1 triệu cây hàng năm; tỷ lệ che phủ rừng tăng từ 24% năm 2015 lên 25% năm 2020.
Công tác trồng cây, trồng rừng được quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt; công tác khoanh nuôi, bảo vệ rừng được tiến hành thường xuyên. Các trường hợp khai thác lâm sản trái phép được xử lý kịp thời. Công tác phòng cháy chữa cháy rừng được quan tâm chỉ đạo, thực hiện tốt phương châm 4 tại chỗ. Diện tích đất lâm nghiệp tiếp tục được khai thác hiệu quả hơn bằng việc sử dụng một số giống cây lâm nghiệp mới để trồng rừng như: Keo hạt Úc, Keo lai, Bạch đàn mô,... đem lại hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho người trồng rừng, góp phần xây dựng nông thôn mới.
c) Các lĩnh vực dịch vụ
Giai đoạn 2016-2019, các ngành dịch vụ trên địa bàn phát triển ổn định với chất lượng ngày càng được nâng cao, tốc độ tăng trưởng đạt bình quân 7,46%/năm. Trong cơ cấu giá trị gia tăng ngành dịch vụ thì dịch vụ bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô xe máy chiếm tỷ trọng cao nhất là 28,76%, dịch vụ giáo dục và đào tạo chiếm 13,5%, dịch vụ vận tải và kho bãi chiếm 7,9%, dịch vụ ngân hàng vào bảo hiểm chiếm 8,12%; một số ngành có tỷ trọng thấp như: dịch vụ lưu trú và ăn uống 5,43%, dịch vụ y tế và hoạt động cứu trợ 7,37%, dịch vụ kinh doanh bất động sản 5,25%, dịch vụ khoa học và công nghệ 2,42%, dịch vụ nghệ thuật vui chơi giải trí chỉ chiếm 1,21%,... Năm 2020 do chịu tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19, ngành dịch vụ đã bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là lĩnh vực du lịch và ăn uống, ước năm 2020, tăng trưởng ngành dịch vụ chỉ đạt 0,32%, theo đó tăng trưởng bình quân toàn giai đoạn chỉ đạt 6,0%/năm, thấp hơn so mục tiêu kế hoạch đề ra (10,5-11%/năm).
Hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh phong phú và đa dạng. Hàng hoá trên thị trường đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng. Kinh doanh thương mại đang phát triển mạnh theo hướng hiện đại, văn minh kết hợp với hình thức truyền thống. Hạ tầng thương mại được quan tâm, nhiều trung tâm thương mại, siêu thị lớn đã đi vào khai thác. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 Trung tâm thương mại, 07 siêu thị, 81 chợ truyền thống (3 chợ hạng I, 8 chợ hạng II, 70 chợ hạng III) và nhiều loại hình mua bán tự phục vụ khác. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giai đoạn giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 9,8%/năm.
Thị trường xuất khẩu ổn định, các doanh nghiệp xuất khẩu gia tăng, đóng góp nhiều hơn các loại hàng hóa tham gia xuất khẩu và nâng cao giá trị xuất khẩu. Trên địa bàn tỉnh có khoảng trên 200 doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 2020 ước đạt 2,9 tỷ USD, tăng trưởng bình quân 5 năm giai đoạn 2016-2020 ước đạt 13%/năm. Kim ngạch nhập khẩu năm 2020 ước đạt 3,14 tỷ USD, tăng bình quân 6%/năm, sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng phục vụ sản xuất và máy móc thiết bị để hình thành tài sản cố định của doanh nghiệp.
Hoạt động du lịch, khách sạn nhà hàng đã phát triển khá trong các năm gần đây. Hệ thống nhà hàng, khách sạn được đầu tư, nâng cấp ngày càng hiện đại và tiện nghi, đáp ứng nhu cầu của khách trong và ngoài nước. Nhiều công trình văn hóa kết hợp phục vụ du lịch được đầu tư hoàn thiện. Hạ tầng du lịch đã từng bước được đầu tư cải tạo, nâng cấp như hệ thống đường giao thông, điện chiếu sáng, cấp, thoát nước... ở các khu , điểm du lịch, tạo điều kiện thu hút các dự án lớn nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh về phát triển du lịch dịch vụ, bước đầu đã khẳng định được thế mạnh về du lịch nghỉ dưỡng, hội thảo hội nghị, du lịch kết hợp với chơi golf và du lịch văn hóa tâm linh, phát huy tốt các lợi thế về địa lý, tài nguyên du lịch, hệ thống di tích lịch sử và các giá trị văn hóa phi vật thể. Các hoạt động quảng bá của tỉnh, của doanh nghiệp được triển khai mạnh mẽ hơn nhằm giới thiệu du lịch Vĩnh Phúc đến với du khách trong và ngoài nước. Số lượt khách du lịch đến tham quan tại tỉnh ngày càng tăng, năm 2019 đạt xấp xỉ 6,1 triệu lượt khách, bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 16,4%/năm, năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên số lượng khách du lịch đến tỉnh chỉ ước đạt 4 triệu lượt khách. Doanh thu du lịch của các cơ sở lữ hành và cơ sở lưu trú năm 2019 đạt 1.910 tỷ đồng, tăng bình quân giai đoạn 2016-2019 là 13,3%/năm, ước năm 2020 đạt 1.150 tỷ đồng. Doanh thu du lịch tăng ổn định qua các năm, đem lại hiệu quả đáng kể tăng nguồn thu cho ngân sách và góp phần nâng cao mức sống cho người dân địa phương.
Kinh doanh vận tải có bước phát triển khá, đã đáp ứng tốt nhu cầu vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân, đặc biệt những dịp tết và lễ hội, mùa tham quan du lịch hàng năm. Hệ thống giao thông được đầu tư nâng cấp; mạng lưới xe buýt được mở rộng với 8 tuyến đã được đầu tư xe buýt mới hiện đại. Khối lượng vận tải hàng hoá và hành khách đều tăng cao. Giai đoạn 2016-2019, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng trưởng bình quân 10,9%/năm, khối lượng luân chuyển hàng hóa tăng 9,9%/năm (theo tấn) và số lượt hành khách luân chuyển tăng 5,2%/năm (theo người). Ước thực hiện giai đoạn 2016-2020, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng trưởng bình quân 5,8%/năm.
Dịch vụ thông tin liên lạc trong tỉnh phát triển khá nhanh, về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc trong quản lý, kinh doanh và đời sống xã hội. Các dịch vụ bưu chính cơ bản được triển khai đến tận thôn, bản, 100% xã, phường có điểm phục vụ bưu chính. Dịch vụ điện thoại di động được phủ sóng toàn tỉnh. Tính đến năm 2019, mật độ thuê bao trên địa bàn (bao gồm cả cố định và di động) đạt 108 máy/100 dân, tăng 28 máy/100 dân so năm 2015. Tính đến nay có khoảng 1,1 triệu thuê bao điện thoại (tăng 929 nghìn thuê bao so với năm 2015); 190 nghìn thuê bao Internet (tăng 100 nghìn thuê bao so với năm 2015); 50 nghìn thuê bao truyền hình trả tiền (giảm 10 nghìn so với năm 2015); Doanh thu của các doanh nghiệp viễn thông giai đoạn 2016-2020 là 7.513 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân cả giai đoạn đạt 5,5%/năm (giai đoạn 2011-2015 đạt 4%). Nhìn chung, dịch vụ thông tin truyền thông trong tỉnh phát triển nhanh, theo kịp với những tiến bộ về công nghệ của cả nước nhưng do trình độ phát triển kinh tế chưa cao nên nhu cầu sử dụng các dịch vụ trong tỉnh vẫn còn hạn chế, thị trường dịch vụ thông tin vẫn còn ở mức tiềm năng.
Dịch vụ tín dụng phát triển khá. Mạng lưới ngân hàng phát triển nhanh, các chi nhánh, phòng giao dịch đã phủ kín trong toàn tỉnh(4). Tăng trưởng tín dụng bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt trên 22%/năm, cao hơn so với mặt bằng chung cả nước, trong đó dư nợ tín dụng trung - dài hạn trung bình chiếm 40% tổng dư nợ. Mức lãi suất điều hành từ năm 2016 đến 10/2019 được duy trì ổn định; từ tháng 11/2019 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã liên tiếp giảm 4 lần các mức lãi suất điều hành(5) nhằm thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, kích thích nền kinh tế, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho nền kinh tế phục hồi và phát triển. Riêng từ đầu năm 2020, trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, ngành Ngân hàng đã giảm mặt bằng lãi suất cho vay từ 0,5% - 2,5%/năm, góp phần giúp người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất. Toàn ngành đã cơ cấu lại nhiều khoản nợ, miễn giảm lãi được cho nhiều khách hàng và ngăn chặn kịp thời những khoản vay có nguy cơ trở thành nợ xấu, giữ tỷ lệ nợ xấu hằng năm ở mức dưới 2%.
1.3. Phát triển các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế trên địa bàn tiếp tục phát triển, trong đó kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế ngoài nhà nước ngày càng tăng, giữ vai trò đầu tàu, chủ đạo trong nền kinh tế với tỷ trọng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 32,31%, kinh tế ngoài nhà nước chiếm 31,34% và kinh tế nhà nước giữ ổn định ở mức 10,26% trong cơ cấu GRDP của tỉnh năm 2019.
Khu vực kinh tế ngoài nhà nước đang dần trở thành khu vực tạo động lực tăng trưởng cho tỉnh Vĩnh Phúc, nhất là kinh tế tư nhân. Ước đến hết năm 2020, toàn tỉnh có 11.830 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký gần 138 nghìn tỷ đồng, trong đó có 8.280 doanh nghiệp thực tế hoạt động (tương đương khoảng 70% doanh nghiệp đăng ký). Môi trường đầu tư, kinh doanh của tỉnh đã và đang được cải thiện, thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa được mở rộng, hầu hết các doanh nghiệp đều sản xuất, kinh doanh hiệu quả, đã có nhiều doanh nghiệp điều chỉnh tăng vốn, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư nâng cấp dây chuyền sản xuất, đổi mới mẫu mã, nâng cao cấp lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, không chỉ góp phần giải quyết việc làm cho hàng trăm nghìn lao động, tăng thu ngân sách nhà nước mà còn tạo bước đột phá mới trong phát triển công nghiệp, thu hút đầu tư, tạo nền móng vững chắc sớm đưa Vĩnh Phúc trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong giai đoạn 2016-2019, giá trị gia tăng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt được tốc độ tăng trưởng khá, trung bình đạt 7,2%/năm; trong đó kinh tế tư nhân đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất với 9,6%/năm, là động lực chủ yếu cho tăng trưởng của kinh tế của khu vực ngoài nhà nước; kinh tế cá thể tăng 6,4%/năm và kinh tế tập thể tăng 3,9%/năm. Cơ cấu kinh tế theo thành phần chuyển dịch theo hướng tích cực với tỷ trọng của kinh tế tư nhân tăng từ 10% năm 2016 tăng lên 12,76% năm 2019; kinh tế tập thể có xu hướng giảm nhẹ và kinh tế cá thể phát triển ổn định trong toàn giai đoạn, năm 2019, kinh tế tập thể chiếm 3,12%, kinh tế cá thể chiếm 15,46% trong cơ cấu GRDP của tỉnh.
Khu vực kinh tế tập thể của tỉnh đã có những chuyển biến rõ rệt, là khu vực có vai trò, vị trí quan trọng trong việc giải quyết việc làm, đảm bảo đời sống cho một bộ phận người lao động, tạo sự ổn định về chính trị - xã hội. Các Hợp tác xã trên địa bàn tỉnh đang có bước vươn lên theo hướng đa dạng các loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thành viên và thị trường. Ước đến hết năm 2020, trên địa bàn tỉnh có 441 hợp tác xã đang hoạt động, trong đó một số hợp tác xã hoạt động có hiệu quả như hợp tác xã dịch vụ môi trường Tam Phúc (huyện Vĩnh Tường; hợp tác xã vật liệu xây dựng Tuổi trẻ (Vĩnh Yên); hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Nhân Lý (huyện Bình Xuyên); hợp tác xã rau an toàn Vân Hội Xanh (huyện Tam Dương); hợp tác xã rau an toàn Visa (xã Đại Tự, huyện Yên Lạc)...
Tỉnh đã cơ bản hoàn thành công tác sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo phương án tổng thể đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đến nay tỉnh Vĩnh Phúc còn 10 doanh nghiệp có vốn nhà nước (trong đó 5 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, 4 doanh nghiệp nhà nước năm giữ trên 50% vốn va 01 doanh nghiệp nhà nước năm giữ dưới 50% vốn điều lệ). Với mục tiêu tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tích cực chỉ đạo các nhiệm vụ giải pháp thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn. Công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp công được thực hiện tốt theo quy định của pháp luật ,... Hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty hàng năm đều đạt mục tiêu kế hoạch đề ra về các chỉ tiêu doanh thu, sản lượng, lợi nhuận doanh nghiệp và trích nộp ngân sách nhà nước.
1.4. Huy động và sử dụng các nguồn lực đầu tư. Xây dựng kết cấu hạ tầng. Phát triển đô thị và thực hiện chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới
a) Huy động và sử dụng nguồn lực đầu tư
Với những giải pháp quyết liệt trong công tác chỉ đạo, điều hành thu ngân sách và nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách của tỉnh nên tổng thu ngân sách trên địa bàn tuy gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn vượt mức tiêu đề ra. Tổng thu ngân sách trên địa bàn trong giai đoạn 2016-2019 đạt 128,8 ngàn tỷ đồng, tăng bình quân 8,3%/năm. Năm 2020, do ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh Covid -19 dẫn đến sản xuất kinh doanh suy giảm nên thu ngân sách ước đạt 28,75 ngàn tỷ đồng. Tỷ lệ tổng thu thu ngân sách nhà nước /GRDP đạt mức cao, trung bình toàn giai đoạn đạt tới 30,17%/năm, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra (22-23% GRDP/năm). Số thu tăng cao đã tạo điều kiện cho tổng chi ngân sách trên địa bàn tăng, đảm bảo nguồn lực đầu tư cho hạ tầng kinh tế xã hội và thực hiện đầy đủ các chính sách xã hội trên địa bàn. Từ năm 2016 đến 2019, chi ngân sách tỉnh tăng bình quân 4,3%/năm, năm 2019 tổng chi ngân sách tỉnh đạt 15,7 ngàn tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 7,76 ngàn tỷ đồng (chiếm 49,4%), chi thường xuyên 7,88 tỷ đồng (chiếm 50,1%). Ước năm 2020 tổng chi ngân sách của tỉnh đạt trên 17 ngàn tỷ đồng, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 6,4%/năm.
Về tình hình huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển: tỉnh đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm huy động mọi nguồn lực phát triển hạ tầng đô thị theo mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã đề ra và các Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, nhất là Nghị quyết 04/NQ-TU ngày 20/10/2017 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XVI) về đầu tư tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị Vĩnh Phúc đến năm 2025; Nghị quyết số 91/NQ-HĐND ngày 16/7/2013 của HĐND tỉnh về phát triển hạ tầng khung đô thị Vĩnh Phúc giai đoạn 2013 - 2020 và Chương trình phát triển đô thị của tỉnh.
Theo đó, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của tỉnh trong những năm qua cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong đó ưu tiên đầu tư công cho các công trình trọng điểm về kinh tế xã hội, nhằm thu hút các dự án sản xuất công nghiệp, dịch vụ chất lượng cao vào đầu tư tại tỉnh và cải thiện, nâng cao chất lượng sống của nhân dân; tạo điểm nhấn cho đô thị Vĩnh Phúc so với các tỉnh, thành trong vùng; đồng thời bảo đảm quốc phòng - an ninh, gắn với sử dụng tiết kiệm đất, bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu. Kết quả: Tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn giai đoạn (2016-2019) đạt tới 131,58 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 13,9%/năm, Dự kiến năm 2020, tổng vốn đầu tư trên địa bàn ước đạt 43,75 nghìn tỷ đồng, theo đó tổng vốn đầu tư cả giai đoạn 2016-2020 đạt 175,3 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 13,3%/năm (theo giá hiện hành).
Tỷ lệ vốn đầu tư trên GRDP bình quân đạt 35,7%, vượt so với kế hoạch đề ra là 25-30% GRDP/năm. Trong đó, vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng khá cao, bình quân giai đoạn 2016-2019 vốn FDI tăng 29,5%/năm, vốn khu vực ngoài nhà nước tăng 9,8%/năm và vốn khu vực nhà nước giảm 0,5%/năm. Cơ cấu vốn đầu tư tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, nguồn vốn đầu tư nước ngoài va khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng và trở thành nguồn vốn chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế , tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước giảm dần từ 25,4% năm 2015 xuống còn 16,8% năm 2019; tỷ trọng vốn khu vực đầu tư nước ngoài tăng cao từ 25,8% năm 2015 lên 43,1% năm 2019.
Trong giai đoạn 2016-2020 đã thu hút được nhiều dự án có vốn đầu tư lớn như các dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, dự án đầu tư xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp, dự án đô thị và các dự án du lịch sinh thái ,... với tổng vốn FDI thu hút ước đạt 3,17 tỷ USD, vượt mức tiêu đề ra (1,3-1,5 tỷ USD); thu hút vốn DDI ước đạt 58,4 ngàn tỷ đồng, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra (14-15 ngàn tỷ đồng). Ngoài ra tỉnh cũng đã thu hút mới được 5 dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi với Tổng mức đầu tư là 258 triệu USD, tập trung đầu tư cho các dự án quan trọng về kết cấu hạ tầng trên địa bàn.
Giai đoạn 2016-2020, hiệu quả vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh tiếp tục ở mức khá với hệ số ICOR đạt khoảng 4-4,5, thấp hơn mức trung bình cả nước 5,18 cho toàn giai đoạn. Điều này phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư trên địa bàn tương đối tốt so trung bình cả nước.
Hệ thống các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đã và đang từng bước hoàn thiện. Các tuyến giao thông quan trọng trong hạ tầng khu đô thị đã được hình thành, nâng cấp và mở rộng. Tỉnh đã khởi công và hoàn thành nhiều công trình giao thông quan trọng như: Đường từ cầu Bì La đi Lập Thạch; Đường Hợp Thịnh - Đạo Tú; Hợp Châu - Đồng Tĩnh; Văn Quán đi Sông Lô; Tây Thiên - Tam Sơn; Đường nối từ Đường Hợp Châu - Đồng Tĩnh đi Tây Thiên; Đường Tây Thiên - Bến Tắm; Đường vành đai 3 trong quy hoạch phát triển giao thông vận tải; Đường QL2 đi cầu Phú Hậu; Mở rộng cầu Bì La… Các tuyến đường hướng tâm cơ bản đã hoàn thành. Nhiều tuyến đường nội thị chính thành phố Vĩnh Yên và Phúc Yên và nhiều tuyến đường tỉnh lộ, huyện lộ,… đã được đầu tư, đưa vào khai thác sử dụng đã phát huy hiệu quả, cải thiện diện mạo đô thị, nông thôn ngày càng khang trang, hiện đại; tăng cường kết nối, giao thương, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp, dịch vụ du lịch, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Giao thông nông thôn, giao thông nội đồng tiếp tục được quan tâm đầu tư, tính đến nay, tổng số đường giao thông nông thôn được kiên cố hóa đạt 94,2%, cụ thể: Đường huyện, đường trục xã đã kiên cố hóa đạt 100%; đường trục thôn đã kiên cố hóa đạt 87,7%. Hạ tầng kinh tế xã hội các xã trên địa bàn đã được đầu tư đồng bộ, đáp ứng tiêu chuẩn nông thôn mới và nâng cao chất lượng sống của nhân dân vùng nông thôn, miền núi trong tỉnh.
Hệ thống điện tiếp tục được đầu tư nâng cấp, đảm bảo đúng quy hoạch và định hướng phát triển. Hệ thống lưới điện từ cao áp đến lưới trung áp, lưới hạ áp được đầu tư đồng bộ, hiệu quả đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Toàn tỉnh đã đầu tư 02 trạm biến áp 220 KV; 8 trạm biến áp 110 KV; hệ thống truyền tải, phân phối gồm 2.011 trạm biến áp phân phối với tổng công suất đạt hơn 1 triệu kVA; lưới điện trung thế gồm đường dây 110kv với 43 xuất tuyến có tổng chiều dài 433,3km; đường dây 22kV với 35 xuất tuyến có tổng chiều dài 805,4km; đường dây 10kV có 6 xuất tuyến có tổng chiều dài 194,8km. Lưới điện quốc gia đã được phủ kín trên toàn tỉnh, 100% số xã trên địa bàn tỉnh được sử dụng điện lưới quốc gia, 100% số xã đạt tiêu chí số 4 về điện theo chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Việc cung cấp điện đảm bảo an toàn, ổn định, kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng điện cho phát triển kinh tế, xã hội. Mạng lưới phân phối bán buôn, bán lẻ điện được tổ chức đa dạng với nhiều loại hình, mô hình kinh doanh, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với quy định pháp luật. Điện năng thương phẩm tăng trưởng ở mức cao, giai đoạn 2016-2019, tăng trưởng điện thương phẩm bình quân 19%/năm, trong đó điện cho công nghiệp và xây dựng tăng 25%/năm, điện phục vụ quản lý và tiêu dùng dân cư tăng 10%/năm.
Các công trình cấp nước tiếp tục được đầu tư đảm bảo nhu cầu nước sạch cho tiêu dùng và sản xuất trên địa bàn. Trong giai đoạn đã đầu tư hoàn thành dự án mở rộng hệ thống cấp nước thành phố Vĩnh Yên; Triển khai đầu tư dự án Nhà máy nước Đức Bác, Nhà máy nước sông Hồng, Nhà máy nước sông Lô. Hệ thống cấp nước đô thị hiện có cơ bản đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất kinh doanh của các hộ tiêu thụ trên địa bàn, các Khu công nghiệp đi vào hoạt động đều được cấp nước đến chân hàng rào, đáp ứng đủ nhu cầu phục vụ sản xuất. Kết quả đến nay, tổng công suất thiết kế cấp nước tại các đô thị là 115 nghìn m3/ngđ, tổng lượng nước cấp cho toàn đô thị khoảng 66,7 nghìn m3/ngàyđêm, đạt 58% công suất thiết kế. Tỷ lệ dân cư đô thị loại IV trở lên được cấp nước sạch từ hệ thống cấp nước tập trung đạt 90%; mức cấp nước toàn tỉnh bình quân đạt 115 lít/người/ngày đêm; tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch là 16%.
Hệ thống thoát nước và xử lý nước thải từng nước được quan tâm đầu tư, nhằm giảm ngập úng vào mùa mưa và cải thiện môi trường sinh thái. Nhiều tuyến kênh tiêu đã được đầu tư nạo vét; đã triển khai dự án thoát nước và xử lý nước thải thành phố Vĩnh Yên; dự án quản lý nguồn nước và ngập lụt Vĩnh Phúc, từng bước giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do nước thải của thành phố Vĩnh Yên, chủ động phòng ngừa và ứng phó với biến đổi khí hậu. UBND tỉnh đã tham mưu cho HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết về cơ chế hỗ trợ cải tạo rãnh thoát nước thải và nạo vét thủy vực giai đoạn 2020-2025, qua đó từng bước hoàn thiện hệ thống thoát nước và xử lý nước thải khu vực nông thôn.
Hệ thống cơ sở hạ tầng thủy lợi nội đồng đã được quan tâm đầu tư, nâng cấp đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; Đến nay, hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh tương đối hoàn chỉnh, cơ bản đủ năng lực, chủ động được nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, du lịch và các nhu cầu dân sinh khác. Toàn tỉnh hiện có khoảng 5,5 nghìn km kênh tưới các loại, đến nay đã kiên cố hóa 100% kênh loại I, II và 98% kênh loại III. Trên 300 công trình đầu mối hồ đập, trạm bơm được đầu tư cải tạo, nâng cấp (100 công trình được xây dựng, nâng cấp sửa chữa theo tiêu chuẩn thiết kế mới, sử dụng đa mục tiêu), nâng dung tích dự trữ nguồn nước của hồ chứa cả tỉnh lên mức 95 triệu m3; các hồ chứa đảm bảo an toàn, đủ điều kiện tích nước và chống lũ.
Nhiều công trình y tế lớn cũng đã được triển khai đầu tư xây dựng, nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân như Bệnh viện Đa khoa tỉnh và Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh; Một số công trình y tế tuyến huyện đã và đang được triển khai đầu tư như: Trung tâm y tế huyện Tam Đảo, Phúc Yên; Bệnh viện đa khoa huyện Vĩnh Tường, Sông Lô; Cải tạo nâng cấp 69 trạm y tế xã… Hoàn thành trường PTTH chuyên Vĩnh Phúc và cải tạo, nâng cấp hệ thống trường học trên địa bàn.
Hạ tầng công nghệ thông tin giai đoạn 2016-2020 đã từng bước được hoàn thiện; đến nay, 100% các cơ quan nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện có mạng LAN, kết nối Internet cáp quang và kết nối mạng truyền số liệu chuyên dùng; 100% cán bộ, công chức, viên chức cấp tỉnh, cấp huyện (trừ viên chức y tế, giáo dục) và khoảng 80% cán bộ, công chức cấp xã được trang bị máy tính. Hạ tầng mạng truyền số liệu chuyên dùng đã xây dựng trục cáp quang và lắp đặt thiết bị đầu cuối tại 55 cơ quan, đơn vị; hệ thống mạng WAN của tỉnh đã kết nối 33 đơn vị, địa phương qua mạng truyền số liệu chuyên dùng; hạ tầng cáp quang được triển khai đến 136 xã, phường, thị trấn; thường xuyên tổ chức hội nghị truyền hình trực tuyến tại UBND tỉnh, 09 điểm tại UBND các huyện, thành phố và 03 điểm tại các sở, ngành. Nhiều xã và các Trung tâm Y tế đã chủ động đầu tư hệ thống hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến phục vụ hội nghị, giao ban.
b) Phát triển đô thị
Tỉnh đã lập và phê duyệt Chương trình phát triển đô thị Vĩnh Phúc đến năm 2030 làm căn cứ để huy động các nguồn lực, thu hút đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị hiện đại và đồng bộ; nâng cao chất lượng môi trường sống, đảm bảo đô thị phát triển bền vững trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng kế hoạch, lộ trình để từng bước thực hiện quy hoạch chung đô thị Vĩnh Phúc đã được phê duyệt, nâng cấp đô thị, nâng loại các đô thị trong phạm vi đô thị Vĩnh Phúc theo từng giai đoạn đến năm 2030. Đến nay, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có tổng số 29 đô thị gồm 01 đô thị loại II (thành phố Vĩnh Yên), 01 đô thị loại III (thành phố Phúc Yên) và 27 đô thị loại V thuộc huyện, trong đó có 16 thị trấn và 11 đô thị được công nhận loại V. thành lập các thị trấn mới gồm: Đại Đình, Hợp Châu, Bá Hiến, Đạo Đức, tỷ lệ dân số đô thị khoảng 45% (đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra).
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có 76 dự án phát triển nhà ở, khu đô thị mới, khu chức năng đô thị (được đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước) đã giao chủ đầu tư với tổng diện tích sử dụng đất 2.740 ha, diện tích đất ở chiếm khoảng 862 ha sau khi các dự án hoàn thiện sẽ đáp ứng được 283.000 người; 2 trong đó 72 dự án khu nhà ở, dự án khu đô thị, dự án hỗn hợp (bao gồm các dự án có thành phần nhà ở) đã được chấp thuận đầu tư, quyết định chủ trương đầu tư với diện tích đất 2.535 ha, đáp ứng được 255.000 người.
c) Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới
Giai đoạn 2016-2020, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tiếp tục được triển khai tích cực. Với sự cố gắng, nỗ lực liên tục của các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội, đặc biệt là của nhân dân trong toàn tỉnh, đến nay khu vực nông thôn trong tỉnh đã có những chuyển biến toàn diện. Vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới đã từng bước được xác định rõ. Các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn được ban hành và triển khai kịp thời; Bộ mặt nông thôn Vĩnh Phúc đã có nhiều đổi mới, kinh tế tăng trưởng khá, đời sống vật chất và tinh thần người dân từng bước được nâng lên. Chất lượng các tiêu chí nông thôn mới ngày càng được nâng cao. Phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới đã thực sự đi vào đời sống người dân, tạo khí thế mới, khích lệ người dân hăng hái thi đua lao động sản xuất.
Đến hết năm 2019, toàn tỉnh có 100% số xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; 04/09 huyện, thành phố (chiếm 44,4%) được công nhận đạt chuẩn, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; có 18 sản phẩm được UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm OCOP; thu nhập bình quân/người/năm ở khu vực nông thôn đạt 47,04 triệu đồng.
Ước đến hết năm 2020: Toàn tỉnh có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, 05/09 huyện, thành phố (chiếm 55,6%) được công nhận đạt chuẩn, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; có 38 sản phẩm được UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm OCOP; 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 02 thôn đạt chuẩn thôn dân cư nông thôn mới kiểu mẫu.
1.5. Nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp
Trong giai đoạn 2016-2020, các cơ quan, đơn vị tiếp tục triển khai, thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chỉ đạo Chính phủ về cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Tỉnh ủy đã ban hành nghị quyết số 01-NQ/TU về Đề án cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2020; Nghị quyết số 02-NQ/TU về việc ban hành một số chính sách khuyến khích thu hút các dự án đầu tư dịch vụ chất lượng cao tại các vùng khó chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc; Trên cơ sở Nghị quyết của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành tích cực triển khai xây dựng Chương trình, kế hoạch hành động để cụ thể hóa thành các nhiệm vụ cụ thể, trong đó đã ban hành nhiều cơ chế hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc như: hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; Hỗ trợ giá thuê hạ tầng đối với các nhà đầu tư thứ cấp thuê lại đất trong các Khu công nghiệp được đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách; hỗ trợ chi phí lập hồ sơ đề xuất dự án đầu tư trực tiếp thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh; hỗ trợ chi phí lập hồ sơ, thủ tục giới thiệu địa điểm, quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 các dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư của tỉnh,…
Công tác cải cách hành chính được quan tâm, đặc biệt là công tác cải cách thủ tục hành chính. Tỉnh đã sớm xây dựng và đưa vào sử dụng Bộ phận một cửa liên thông, hiện đại tại 100% sở, ngành cấp tỉnh, các huyện, thành phố và các xã, phường, thị trấn. Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh đã đi vào hoạt động thực hiện tiếp nhận hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính của 16 sở, ban, ngành, 02 cơ quan Trung ương, 01 doanh nghiệp nhà nước; Trung tâm phục vụ hành chính công cấp huyện được triển khai tại tất cả các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh. Thủ tục hành chính được các cơ quan, đơn vị thường xuyên được cập nhật, đơn giản hóa, giảm thời gian giải quyết và công bố tại Bộ phận một cửa, Cổng thông tin điện tử của tỉnh và các phần mềm giải quyết thủ tục hành chính.
Hiện đại hóa nền hành chính được tăng cường. Đã có 166 cơ quan, đơn vị xây dựng và triển khai phần mềm ứng dụng cho Bộ phận một cửa. Vĩnh Phúc là tỉnh đầu tiên trong cả nước triển khai được Phần mềm ứng dụng Bộ phận một cửa đồng bộ ở cả ba cấp, bảo đảm liên thông theo “chiều ngang”, “chiều dọc” khi thực hiện giải quyết thủ tục hành chính. Vĩnh Phúc luôn nằm trong tốp 20 tỉnh, thành phố có điểm chỉ số cải cách hành chính (PAR index) cao nhất cả nước, năm 2019 tỉnh xếp thứ 10/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số quản trị hiệu quả và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) đã có chuyển biến tích cực, năm 2019 xếp thứ 18/63 tỉnh, thành phố, là tỉnh được xếp vào nhóm có số điểm cao nhất. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) luôn thuộc nhóm có thứ hạng cao so cả nước, năm 2019 tỉnh xếp thứ 17/63 tỉnh, thành phố(6).
2. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội
2.1. Phát triển văn hóa và thể dục thể thao
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy đảng, chính quyền và sự hưởng ứng tích cực của các tầng lớp nhân dân. Nhiều giá trị văn hóa dân tộc, di tích, di sản được bảo tồn, phát huy, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao rõ rệt, bộ mặt nông thôn mới có nhiều khởi sắc. Việc thực hiện nếp sống văn minh, trong việc cưới, việc tang, lễ hội, xây dựng môi trường văn hóa an toàn, lành mạnh được người dân hưởng ứng thực hiện có hiệu quả, các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan dần được xóa bỏ. Tỷ lệ thôn, làng văn hóa hàng năm đạt mức cao, năm 2020 ước đạt 86,9%, vượt mục tiêu đề ra từ 75-80%/năm; tỷ lệ gia đình văn hóa ước đạt 89,4%, đạt mục tiêu đề ra từ 85-90%.
Thể thao quần chúng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” được triển khai rộng khắp tới các tầng lớp nhân dân. Thể thao thành tích cao có những bước tiến bền vững, một số môn khẳng định được thương hiệu và đứng trong top đầu quốc gia, góp phần tuyên truyền, quảng bá hình ảnh tỉnh Vĩnh Phúc năng động, phát triển tới bạn bè trong, ngoài tỉnh, cũng như khách quốc tế. Hằng năm, các cấp thôn, tổ dân phố đã tổ chức gần 30 nghìn giải thể thao với hơn 2,3 triệu lượt vận động viên tham gia; cấp xã, phường, thị trấn tổ chức gần 4,8 nghìn giải với 720 nghìn lượt vận động viên tham gia; cấp huyện, thành phố tổ chức hơn 440 giải với 110,3 nghìn lượt vận động viên tham gia; các vận động viên của tỉnh đã tham gia các giải trong nước, khu vực và đạt 1.030 huy chương các loại, trong đó có 329 huy chương vàng, 295 huy chương bạc, 405 huy chương đồng. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, dụng cụ thi đấu, huấn luyện được tăng cường, môi trường rèn luyện được cải thiện; chế độ chính sách cho vận động viên, huấn luyện viên được thực hiện đủ. Tính đến năm 2020, tỉnh đã hỗ trợ 191,7 tỷ đồng tổng xây dựng nhà luyện tập thể dục thể thao xã, phường, thị trấn; sân thể thao đơn giản, tổ chức các hoạt động thể thao quần chúng.
2.2. Thực hiện việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo
Trong giai đoạn 2016-2020, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách đầu tư cho sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Tỉnh ủy, UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo Ngành giáo dục đào tạo và cấp ủy, chính quyền các địa phương trong tỉnh triển khai đồng bộ nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực, tập trung đổi mới căn bản , toàn diện giáo dục và đào tạo phổ thông. Hệ thống mạng lưới trường lớp từ mầm non đến phổ thông tiếp tục được quy hoạch và đầu tư cơ bản hoàn chỉnh. Thực hiện tốt việc sắp xếp, bố trí lại mạng lưới các trường học trên địa bàn. Cơ sở vật chất thiết bị dạy học tiếp tục được trang bị đồng bộ theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và được điều chỉnh phù hợp yêu cầu thực tế của từng cấp học. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm đầu tư đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Số lượng trường đạt chuẩn tăng cao, đến năm 2019 đã có 100% trường công lập đạt chuẩn quốc gia, hoàn thành chỉ tiêu đề ra.
Chất lượng giáo dục toàn diện tiếp tục chuyển biến tích cực; kỷ cương, nền nếp, trật tự trong nhà trường được tăng cường. Phương pháp dạy học, kiểm tra và đánh giá học sinh được đổi mới theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Việc dạy thêm, học thêm được quản lý chặt chẽ. Công tác phổ cập giáo dục được củng cố và duy trì, chất lượng phổ cập mẫu giáo cho trẻ mầm non 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, THCS tiếp tục ổn định, các chỉ số chung của toàn tỉnh đều vượt các tiêu chí do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và học nghề ước đạt 26,1%.
Công tác phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi đạt nhiều thành tích nổi bật tiếp tục là thế mạnh của tỉnh. Số lượng và chất lượng học sinh giỏi quốc gia ổn định ở mức cao so với các tỉnh, thành trong cả nước. Học sinh Vĩnh Phúc có mặt ở tất cả các sân chơi trí tuệ cấp quốc gia, khu vực và quốc tế và luôn đạt thứ hạng cao, nhiều học sinh đạt huy chương trong các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế.
Bên cạnh các kết quả tốt về chất lượng giáo dục văn hóa, chất lượng các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao đều đứng thứ hạng cao. Giáo dục và đào tạo Vĩnh Phúc tiếp tục thực hiện tốt cả 3 nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Giáo dục nghề nghiệp tiếp tục được quan tâm, chất lượng dân được nâng lên. Chương trình đào tạo đã có sư đổi mới gắn với nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2020 ước đạt 76%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo được cấp chứng chỉ ước đạt 33,4%, đạt mục tiêu nghị quyết đề ra.
2.3. Công tác chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân
Giai đoạn 2016-2020, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh đặc biệt quan tâm, chú trọng, trong đó Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 03-NQ/TU ngày 05/12/2016 về phát triển sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đến năm 2020, UBND tỉnh ban hành Đề án số 4275/QĐ-UBND ngày 29/12/2016 và Kế hoạch số 2977/KH-UBND ngày 27/4/2017 để cụ thể hóa, tổ chức triển khai Nghị quyết của Tỉnh ủy. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, Đề án và Kế hoạch của UBND tỉnh, mạng lưới khám, chữa bệnh từ tỉnh đến xã được tập trung đầu tư, nâng cấp với tổng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách đạt trên 3.325 tỷ đồng, trong đó: Đã đầu tư xây dựng và hoàn thành một số công trình như: Bệnh viện đa khoa tỉnh quy mô 1000 giường bệnh (giai đoạn I), Bệnh viện Sản - Nhi quy mô 500 giường bệnh, các bệnh viện và Trung tâm y tế tuyến huyện (Tam Đảo, Vĩnh Tường, Phúc Yên, Sông Lô,…). Trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, góp phần phát triển các dịch vụ kỹ thuật theo phân tuyến, nhất là các kỹ thuật chuyên sâu tại bệnh viện tuyến tỉnh. Nhiều thiết bị y tế hiện đại đa được trang bị cho các bệnh viện tuyến tỉnh và các thiết bị thiết yếu bổ sung cho trung tâm y tế tuyến huyện. Tỉnh đã thực hiện giao tự chủ chi thường xuyên cho 13/15 cơ sở khám, chữa bệnh (đạt 86,6%), qua đó đã tiết kiệm chi ngân sách nhà nước gần 200 tỷ đồng mỗi năm, góp phần nâng cao tính chủ động và hiệu quả, chất lượng khám chữa bệnh của các bệnh viện.
Chính sách hỗ trợ kinh phí để thực hiện lộ trình tiến tới Bảo hiểm y tế toàn dân trên địa bàn tỉnh đã được triển khai thực hiện tốt với 1,31 triệu lượt đối tượng được hỗ trợ bảo hiểm y tế với kinh phí 168,58 tỷ đồng. Qua đó, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế trên địa bàn đã tăng từ 71,19% năm 2015 lên 92,5% năm 2019 (tăng 1,28%), cao hơn trung bình toàn quốc 2,5%, ước đến hết năm 2020 đạt 93%, vượt 3% so với chỉ tiêu Chính phủ giao (Chính phủ giao là 90%).
Công tác phòng chống dịch bệnh được triển khai rộng khắp, giám sát dịch bệnh được thực hiện ở cả 3 tuyến nhằm phát hiện và xử lý kịp thời. Công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 đã được các cấp, các ngành khẩn trương, quyết liệt thực hiện điều tra dịch tễ, giám sát, khoanh vùng, cách ly, điều trị khỏi các trường hợp mắc và dịch bệnh được khống chế, kiểm soát tốt. Các Chương trình mục tiêu y tế - dân số tiếp tục được triển khai có hiệu quả, nhiều chỉ tiêu vượt mức trung bình của cả nước. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ước thực hiện năm 2020 là 7,7% (đạt mục tiêu kế hoạch). Tiêm chủng mở rộng hàng năm đạt trung bình trên 98,5%. Ước thực hiện năm 2020 tỷ lệ sàng lọc sơ sinh đạt 54%, sàng lọc trước sinh đạt 92% vượt chỉ tiêu kế hoạch giao. Duy trì mức sinh thay thế. Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng, chống HIV/AIDS, phòng chống các bệnh không lây nhiễm được chú trọng, đạt kết quả tốt.
Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Tinh thần thái độ phục vụ người bệnh có nhiều tiến bộ. Các đơn vị ngành y tế đã cải cách thủ tục hành chính, công khai minh bạch thu giá dịch vụ y tế, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh. Danh mục kỹ thuật thực hiện theo phân tuyến tăng từ 72,4% năm 2016 lên 85,3% năm 2020. Hàng năm, các đơn vị y tế triển khai trung bình từ 130 đến 150 dịch vụ kỹ thuật mới, một số kỹ thuật vượt tuyến, chuyên sâu như nút mạch máu u xơ tử cung, chụp và can thiệp mạch máu não, nút mạch gan, phẫu thuật u tủy, vi phẫu, xạ hình xương, can thiệp mạch, điều trị nhồi máu não sớm… được triển khai tại Bệnh viện tuyến tỉnh (Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Sản - Nhi, Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên) đã góp phần cứu sống nhiều bệnh nhân nặng, giảm tỷ lệ chuyển tuyến.
Mạng lưới y học cổ truyền được khuyến khích phát triển từ tuyến tỉnh đến huyện, xã. Các cơ sở khám chữa bệnh triển khai ngày càng nhiều các dịch vụ kỹ thuật y học cổ truyền, kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại trong điều trị góp phần điều trị hiệu quả, rút ngắn thời gian điều trị của người bệnh. Công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành y tế được quan tâm chú trọng thông qua việc tăng cường cử cán bộ đi đào tạo hoặc luân phiên cán bộ y tế xuống tuyến dưới để chuyển giao gói kỹ thuật, hội chẩn từ xa với các bệnh viện trung ương để trao đổi về chuyên môn ,... đưa tỷ lệ bác sỹ /vạn dân năm 2020 ước đạt 13,8 bác sỹ/vạn dân, vượt mức tiêu đề ra (9,3 bác sỹ/vạn dân).
Kế hoạch phát triển y tế cơ sở được triển khai hiệu quả. Ngân sách tỉnh đã đầu tư khoảng 100 tỷ đồng để cải tạo, sửa chữa, xây mới hơn 70 trạm y tế xã. 100% trạm y tế xã có bác sỹ công tác, 90% dân số được lập hồ sơ khám, quản lý sức khỏe. 100% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia về y tế xã vào năm 2019 (về đích sớm hơn 1 năm so với kế hoạch và cao hơn trung bình toàn quốc là 76,5%).
2.4. Đảm bảo an sinh, phúc lợi xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân
Công tác giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm tiếp tục được quan tâm thực hiện. Hoạt động hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm được tăng cường thông qua sàn giao dịch việc làm tại các huyện, thành phố và sàn giao dịch việc làm online. Các dự án vay vốn tạo việc làm, hỗ trợ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài và các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm được thực hiện hiệu quả. Giai đoạn 2016-2020, ước toàn tỉnh giải quyết việc làm cho khoảng 24,5 ngàn lượt người/năm, vượt mục tiêu kế hoạch đã đề ra (từ 19 - 20 ngàn người/năm). Kết quả giải quyết việc làm đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững của tỉnh. Đến năm 2019, tỷ lệ lao động trong khu vực nông lâm nghiệp thủy sản giảm còn 28,49% trong cơ cấu lao động của tỉnh, đạt mục tiêu đề ra (đến năm 2020 còn dưới 30%).
Chính sách giảm nghèo của tỉnh tiếp tục được quan tâm thực hiện. Các phong trào “Tương thân, tương ái”, “Quỹ vì người nghèo”, “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” được tổ chức thường xuyên và thu hút sự hưởng ứng của xã hội. Các cấp, các ngành trong tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo, hộ cận nghèo. Hỗ trợ xây dựng hơn 100 căn nhà cho hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mỗi năm; hỗ trợ các hộ đồng bào dân tộc về cây giống, vật tư nông nghiệp, hỗ trợ các công trình cấp nước nhỏ lẻ,... Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 3,93% năm 2016 xuống còn 0,98% năm 2020; 100% đối tượng thuộc hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo và hộ cận nghèo được thụ hưởng các chính sách về y tế, giáo dục và trợ giúp pháp lý kịp thời, tiếp cận thông tin, nước sạch; 100% hộ nghèo, hộ cận nghèo đủ điều kiện và có nhu cầu vay vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh được hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi từ Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh. Toàn tỉnh không có hộ nghèo ở nhà dột nát, nhà thiếu kiên cố; 100% người nghèo trong độ tuổi lao động có yêu cầu đều được hỗ trợ đào tạo nghề và giới thiệu việc làm phù hợp. Đến hết năm 2019 toàn tỉnh không còn hộ nghèo thuộc đối tượng chính sách người có công. 100% các xã đạt tiêu chí tỷ lệ hộ nghèo trong xây dựng nông thôn mới.
Công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em đạt nhiều kết quả tích cực, 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí; các hoạt động truyền thông về kiến thức, kỹ năng phòng chống tai nạn thương tích,… được quan tâm hơn; các chương trình tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, khám chữa bệnh miễn phí, phẫu thuật, phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật, khám sàng lọc, đánh giá lại tình hình suy dinh dưỡng trẻ em được triển khai đồng bộ. Các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí và trao quà trong các dịp lễ, tết. Với những nỗ lực của tất cả các cấp, các ngành, tình hình an sinh xã hội luôn được bảo đảm.
Giai đoạn 2016-2020, chương trình mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn. Các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được giải quyết kịp thời, đúng định mức, đúng đối tượng thụ hưởng, đảm bảo nhanh chóng, chính xác. Các chế độ chính sách đối với người có công, thân nhân người có công được thực hiện tốt. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc đời sống người có công với cách mạng tiếp tục được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Quyết định hưởng trợ cấp cho hàng trăm trường hợp hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; thực hiện chính sách ưu đãi trong giáo dục và đào tạo, hỗ trợ xây mới và sửa chữa nhà cho hàng trăm đối tượng chính sách, người có công. Quan tâm chăm sóc, phát huy vai trò người cao tuổi; triển khai tốt các hoạt động vì Người cao tuổi như tổ chức thực hiện chu đáo, thiết thực, ý nghĩa công tác chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi ở cơ sở.
2.5. Công tác thông tin và truyền thông
Hạ tầng mạng lưới bưu chính, viễn thông của tỉnh không ngừng phát triển và được phủ sóng rộng khắp với 11 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, 169 bưu cục, điểm phục vụ, số dân phục vụ bình quân 7.000 người/điểm, mật độ điện thoại đạt 108 máy/100 dân. Việc cung cấp dịch vụ tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích đã góp phần mang lại cho người dân nhiều thuận lợi, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại được nhân dân đồng tình ủng hộ và đánh giá cao. Các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông đã nỗ lực xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại, an toàn, có dung lượng lớn, tốc độ cao, vùng phủ sóng rộng nhằm phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo tỉnh, các cơ quan quản lý Nhà nước. Đồng thời, cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông với chất lượng tốt, giá cước hợp lý trên cơ sở cạnh tranh đáp ứng nhu cầu đa dạng của người sử dụng dịch vụ; bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng viễn thông và an ninh thông tin cho các hoạt động ứng dụng viễn thông, công nghệ thông tin, nhất là trong việc thúc đẩy phát triển chính phủ điện tử, thương mại điện tử của tỉnh.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước được đẩy mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 17/2019/NQ-CP của Chính phủ về Chính phủ điện tử và Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính Nhà nước. Theo đó, Vĩnh Phúc thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Chính quyền điện tử tỉnh; ban hành kế hoạch thực hiện chính phủ điện tử; ban hành Kiến trúc chính quyền điện tử tỉnh phiên bản 1.0 giai đoạn 2018-2020 và ban hành Kiến trúc chính quyền điện tử tỉnh phiên bản 2.0 trong tháng 10/2020... Cùng với đó, hằng năm, tỉnh đều cấp bổ sung kinh phí, đầu tư nâng cấp hệ thống mạng LAN, bổ sung trang bị máy tính cho các Sở, ngành, địa phương. Đặc biệt, sau 1 năm Cổng dịch vụ công trực tuyến tỉnh Vĩnh Phúc đi vào hoạt động và được tích hợp với Cổng dịch vụ công quốc gia, đã có 369 danh mục thủ tục hành chính dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 và 6 dịch vụ công mức độ 4 kết nối, tích hợp với Cổng dịch vụ công Quốc gia. Hệ thống phần mềm ứng dụng cho bộ phận một cửa tại các sở, ngành, UBND cấp huyện, cấp xã được triển khai đồng bộ, với phần mềm duy nhất, bảo đảm kết nối liên thông. Các ứng dụng dùng chung, hệ thống Cổng Thông tin điện tử được khai thác liên tục và là công cụ phục vụ cải cách hành chính, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
Hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản: Các cơ quan thông tin tuyên truyền của tỉnh đã thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, nội dung trong giấy phép hoạt động. Cổng Thông tin - Giao tiếp điện tử của tỉnh và hệ thống các cổng thành phần đã thực hiện việc tuyên truyền, phản ánh các sự kiện, hoạt động của lãnh đạo tỉnh; các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của tỉnh, ngành và địa phương; tập trung xây dựng các chuyên trang, chuyên mục để cung cấp, hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp và tổ chức, công dân đã đóng góp tích cực trong việc cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh. Nội dung các ấn phẩm báo, chương trình phát thanh, truyền hình có nhiều đổi mới, phong phú và đa dạng; thông tin kịp thời, chính xác các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh, trong nước, quốc tế, kết quả từ năm 2016 tới quý 2/năm 2020: Báo Vĩnh Phúc đã xuất bản gần 1.500 kỳ với hơn 135 nghìn tin, bài, ảnh trên các ấn phẩm; Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh phát sóng 24 giờ/ngày với gần 70 nghìn tin, bài, phóng sự, chuyên mục; phát thanh 3 buổi/ngày, với gần 23 nghìn tin, bài, phóng sự, xuất bản 5 nghìn cuốn sách nghiệp vụ công tác truyền thanh cơ sở. Hoạt động xuất bản đã phát triển nhanh, từ năm 2016 đến quý 2/2020 đã cấp hơn 1,1 nghìn giấy phép xuất bản với hơn 8,6 triệu bản in; cấp 193 giấy phép nhập khẩu xuất bản phẩm không kinh doanh; thẩm định gần 53 nghìn tài liệu, catalogue, tờ rời, tờ gấp, CD. Hoạt động in và phát hành được quản lý chặt chẽ, trên địa bàn tỉnh đến nay có 15 cơ sở in lớn, 47 cơ sở phát hành; doanh thu của các doanh nghiệp in, phát hành giai đoạn 2016-2020 ước đạt gần 1,3 nghìn tỷ đồng (tăng 1,4 lần so với năm 2015), bình quân tăng 30%/năm (giai đoạn 2011-2015 đạt 8%).
2.6. Phát triển, tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ
Công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào thực tiễn sản xuất và đời sống được đẩy mạnh. Trong giai đoạn 2016-2020, tỉnh đã triển khai 02 Chương trình nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ "Xây dựng mô hình thí điểm liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao đối với sản phẩm chuối tiêu hồng tại huyện Yên Lạc, giai đoạn 2017-2020” và “Chương trình nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ xây dựng mô hình thí điểm liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao đối với sản phẩm rau quả trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2017-2020”.
Nhiều mô hình khoa học và công nghệ có hiệu quả được triển khai như: bảo tồn, phát triển cây dược liệu quý hiếm Trà hoa vàng, ba kích; trồng chanh tứ quý, cam không hạt (cam V2) chất lượng cao; nhà kính, nhà lưới ứng dụng công nghệ cao; sản xuất, cung ứng chế phẩm Biomix1; xử lý chất thải chăn nuôi bằng công nghệ tách rắn-lỏng... tuyển chọn và phát triển một số giống lúa thuộc nhóm Japonica chất lượng trên địa bàn tỉnh; trồng thử nghiệm một số giống ớt thương phẩm nhập nội; ứng dụng công nghệ thụ tinh nhân tạo để phát triển đàn trâu lai Murrah tại Vĩnh Phúc...; nhiều kỹ thuật y học mới, bài thuốc y học cổ truyền được triển khai, áp dụng, góp phần nâng cao công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Sàn giao dịch công nghệ thiết bị trực tuyến bước đầu hoạt động có hiệu quả, góp phần đẩy mạnh thị trường công nghệ trên địa bàn tỉnh phát triển.
Hoạt động quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trên các lĩnh vực: an toàn bức xạ hạt nhân, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, quản lý khoa học công nghệ cơ sở... có nhiều đổi mới, bước đầu đem lại kết quả tốt. Nhìn chung các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh đã có ý thức chấp hành pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, ghi nhãn hàng hóa. Nhận thức của người tiêu dùng ngày càng tăng, do vậy góp phần đẩy lùi tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng. Đầu tư cho khoa học và công nghệ được các cấp, ngành quan tâm: tiềm lực khoa học và công nghệ (cơ sở vật chất, trang thiết bị..) được tăng cường, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong: quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ, nông nghiệp & phát triển nông thôn, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo… Hoạt động thông tin, tuyên truyền về khoa học và công nghệ được đẩy mạnh với nội dung phong phú, đối tượng rộng rãi, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về vai trò, tác động của khoa học và công nghệ đối với sản xuất và đời sống. Các dịch vụ khoa học và công nghệ: tư vấn, chuyển giao công nghệ, kiểm định, hiệu chuẩn các phương tiện đo, thử nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa... tiếp tục được đẩy mạnh.
2.7. Quản lý về tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
Quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ cuối 2016-2020 được hoàn thành, đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, phát huy được nguồn lực đất đai đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ và chấp thuận các dự án thu hồi đất được thực hiện đúng quy định. Trong nhiệm kỳ đã có 727 công trình, dự án sử dụng 2,1 ngàn ha đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng thực hiện việc thu hồi, giao đất và chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định; UBND tỉnh đã trình Chính phủ cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng cho 23 công trình, dự án với tổng diện tích 1,26 ngàn ha. Thực hiện giao, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng 825,85 ngàn ha đất cho 383 dự án phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
Công tác quản lý khoáng sản, giải quyết các vụ khai thác khoáng sản trái phép được tăng cường. Thực hiện điều tra, đánh giá hiện trạng xả nước thải vào nguồn nước, thống kê các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nhằm đề ra các biện pháp quản lý thích hợp, hiệu quả. Thực hiện tốt việc thanh, kiểm tra hoạt động trong lĩnh vực tài nguyên nước đối với các Công ty, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Công tác quản lý, bảo vệ môi trường được các cấp, các ngành tăng cường chỉ đạo. Nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ bảo vệ môi trường nông thôn đã được ban hành, trong đó tỉnh đã tập trung hỗ trợ xây dựng, cải tạo trên 1.100 km rãnh tiêu thoát nước thải, đầu tư 16 công trình xử lý nước thải sinh hoạt phân tán cho các cụm tuyến dân cư, hỗ trợ xây dựng trên 55 ngàn hầm biogas, đầu tư xây dựng 35 lò đốt rác thải sinh hoạt quy mô cấp xã,.... góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường khu vực nông thôn. Công tác thu gom và xử lý chất thải rắn đô thị tiếp tục được thực hiện tốt. Các hoạt động về ứng phó, biến đổi khí hậu được triển khai tốt. Tính đến năm 2020, các chỉ tiêu về bảo vệ môi trường đều đạt mục tiêu nghị quyết đề ra: tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt khu vực đô thị ước đạt 95%. Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn khu vực nông thôn ước đạt 75%; tỷ lệ chất thải nguy hại và chất thải y tế được xử lý đạt 100%.
3. Quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại
3.1. Công tác quân sự địa phương
Công tác quân sự, quốc phòng địa phương luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đặc biệt quan tâm. Tỉnh đã chỉ đạo tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh. Các cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang tỉnh thường xuyên duy trì và thực hiện nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu theo đúng quy định; phối hợp hiệp đồng chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, nắm chắc tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn để sẵn sàng xử trí các tình huống có thể xảy ra.
Chất lượng huấn luyện của các đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh được đổi mới theo phương châm "Cơ bản, thiết thực, vững chắc" sát thực tế chiến đấu, đối tượng tác chiến, yêu cầu, nhiệm vụ, địa bàn hoạt động. Tập trung huấn luyện cho bộ đội địa phương giỏi tác chiến trong khu vực phòng thủ, dân quân tự vệ thuần thục tác chiến bảo vệ làng, xã và giữ gìn trật tự an ninh ở cơ sở. Chương trình, kế hoạch huấn luyện cho các đối tượng được triển khai nghiêm túc, qua kiểm tra, đánh giá có 75% các nội dung đạt khá, giỏi. Các cuộc diễn tập các cấp được chuẩn bị chu đáo, chỉ đạo triển khai hiệu quả, trong giai đoạn 2016-2020 tỉnh đã chỉ đạo tổ chức 01 cuộc diễn tập chiến đấu khu vực phòng thủ cấp tỉnh, 6 cuộc diễn tập cấp huyện, 110 cuộc diễn tập cấp xã và 3 cuộc diễn tập ứng phó sự cố thiên tai tìm kiếm cứu nạn kết hợp diễn tập phòng thủ dân sự đều được cấp trên đánh giá đạt loại giỏi.
Công tác xây dựng cơ sở vật chất khu vực phòng thủ tỉnh theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị (khoá X) được Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh thực hiện tốt, trong đó tỉnh đã xây dựng 2 đề án khu vực phòng thủ và phòng thủ dân sự, củng cố các công trình chiến đấu trong khu vực phòng thủ, xây dựng thao trường huấn luyện, các công trình cơ sở vật chất doanh trại chính quy, xanh, sạch, đẹp cho cán bộ, chiến sỹ các đơn vị bộ đội địa phương và hỗ trợ các lực lượng quân sự đứng chân trên địa bàn. Ngoài ra, UBND tỉnh đã xây dựng kế hoạch phòng không nhân dân bảo đảm theo quyết tâm tác chiến phòng thủ, phương án tác chiến để triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả công tác phòng không nhân dân.
Công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, tuyển quân sự được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc các bước. Tỉnh đã giao quân cho các đơn vị quân đội đạt 100% chỉ tiêu được giao, với hơn 9.800 chiến sỹ có chất lượng. Các chính sách hậu phương quân đội, giải quyết chế độ chính sách nghỉ hưu, xuất ngũ, thôi việc... được chú trọng và thực hiện đúng quy định.
3.2. Công tác bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội
An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Đã chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về công tác đảm bảo an ninh, trật tự. Xây dựng, triển khai các phương án, kế hoạch bảo vệ tuyệt đối an toàn Đại hội Đảng các cấp, các mục tiêu trọng điểm, các sự kiện chính trị, xã hội quan trọng diễn ra trên địa bàn tỉnh. Thực hiện tốt phương châm “an ninh chủ động”, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ. Chủ động nắm, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình tại từng địa bàn phát sinh phức tạp về an ninh chính trị nội bộ, an ninh tôn giáo, an ninh xã hội, tham mưu cấp ủy, chính quyền các cấp, phối hợp các ngành chỉ đạo giải quyết không để hình thành điểm nóng. Đặc biệt, lực lượng Công an đã sớm tham mưu, đề xuất Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai nhiều biện pháp có tính cấp thiết trong công tác phòng chống dịch Covid-19, tham gia có hiệu quả công tác khoanh vùng, dập dịch, phòng chống dịch lây lan trên địa bàn tỉnh được cấp ủy chính quyền và quần chúng nhân dân ghi nhận, đánh giá cao.
Tăng cường các biện pháp đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm, tệ nạn xã hội góp phần kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm (giảm 13,8% so với nhiệm kỳ trước), giảm trọng án (giảm 10%), tỷ lệ điều tra khám phá đạt cao (đạt 86,8%, vượt 11,8% so với chỉ tiêu đề ra, trong đó tỷ lệ điều tra trọng án đạt 100%, vượt 5%, không để hình thành tội phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu “xã hội đen”. Công tác quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự được quan tâm chỉ đạo. Công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông được tăng cường; tập trung triển khai các giải pháp phòng ngừa, hạn chế tai nạn giao thông, qua đó góp phần làm giảm tai nạn giao thông trên cả 3 tiêu chí (giảm 40,8% số vụ, giảm 40,3% số người chết và giảm 16,5% số người bị thương). Chỉ đạo đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn với các phong trào thi đua yêu nước, tạo hiệu ứng tích cực. Mối quan hệ phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các ban, ngành, đoàn thể trong xây dựng phong trào và công tác dân vận được phát huy hiệu quả. Hoàn thành việc bố trí Công an chính quy đảm nhiệm các chức danh Công an xã, đến nay đã điều động, bố trí Công an chính quy đảm nhiệm các chức danh Công an xã tại 120/120 xã, thị trấn. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng được quan tâm.
3.3. Hoạt động đối ngoại
Nhiệm kỳ 2016-2020, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh luôn chú trọng triển khai các hoạt động hợp tác, giao lưu, kết nối với các đối tác nước ngoài trên cả ba lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa.
Về ngoại giao chính trị, tỉnh đã duy trì và phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các đối tác truyền thống, mở rộng và thiết lập quan hệ với các đối tác mới. Hiện nay, Vĩnh Phúc có quan hệ hợp tác hữu nghị với tỉnh Chungcheongbuk (Hàn Quốc), tỉnh Akita (Nhật Bản) và các tỉnh Bắc Lào. Từ nền tảng quan hệ được thiết lập, tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động trao đổi đoàn các cấp, nhiều hoạt động giao lưu, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm trên các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, nông nghiệp… Các hoạt động hợp tác đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng cường tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới phục vụ phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
Về ngoại giao kinh tế, thông qua các diễn đàn song phương, đa phương, các hội chợ thương mại quốc tế tỉnh đã đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư, vận động viện trợ phi chính phủ. Hằng năm, tỉnh tổ chức các đoàn thăm hữu nghị kết hợp xúc tiến đầu tư, tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế tại nước ngoài để quảng bá, giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của tỉnh với bạn bè quốc tế, cùng với đó là việc phối hợp tốt với Đại sứ quán các nước tại Việt Nam để tăng cường hợp tác hữu nghị và tranh thủ kêu gọi các dự án đầu tư. Năm 2020, mặc dù ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhưng tỉnh cũng đã mời nhiều Đại sứ các nước thăm và làm việc với tỉnh như Đại sứ Hàn Quốc, Bun-ga-ri, Thái Lan, Cuba, In-đô-nê-xi-a… Trong lĩnh vực xúc tiến viện trợ phi chính phủ, đến nay các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã giải ngân trên 20 triệu USD thông qua thực hiện hàng trăm chương trình và dự án trên địa bàn tỉnh, góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cá nhân có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh ngoại giao kinh tế và ngoại giao chính trị, các hoạt động ngoại giao văn hóa, thông tin, tuyên truyền đối ngoại cũng được triển khai tích cực, trong đó đã tăng cường giới thiệu, quảng bá các đặc trưng văn hóa, tiềm năng, thế mạnh của tỉnh đến bạn bè trong nước và quốc tế qua nhiều hình thức đa dạng như tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, xuất bản các ấn phẩm, chuyên san giới thiệu về tỉnh…
4. Xây dựng chính quyền và cải cách tư pháp
4.1. Công tác xây dựng chính quyền
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về sắp xếp, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã ban hành Đề án số 01-ĐA/TU ngày 30/11/2016, Kế hoạch số 33-KH/TU ngày 08/12/2016. Kết quả:
- Về sắp xếp, tinh gọn bộ máy: 100% các cơ quan hành chính cấp tỉnh, cấp huyện đã được quy định lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo quy định. Toàn tỉnh đã giải thể, sáp nhập và giảm 58 phòng chuyên môn thuộc sở, ban, ngành, chi cục; giảm 10 phòng chuyên môn cấp huyện; kiện toàn lại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và UBND cấp huyện đã kiện toàn Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả một cửa theo Nghị định số 61/2018/NĐ-CP của Chính phủ; giảm 111 đơn vị sự nghiệp công lập(7). Sáp nhập xã Tân Cương và Phú Thịnh thuộc huyện Vĩnh Tường thành xã Tân Phú và sau khi sắp xếp lại thì toàn tỉnh có 136 đơn vị hành chính cấp xã (giảm 01 xã). Về sắp xếp thôn, tổ dân phố, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 43/NQ-HĐND, qua đó đã sáp nhập 272/274 thôn, tổ dân phố (đạt 99,3%) thành 130 thôn, tổ dân phố, giảm 142 thôn, tổ dân phố.
- Về tinh giản biên chế: Từ năm 2015 đến nay toàn tỉnh đã thực hiện cắt giảm 1.714 chỉ tiêu công chức, viên chức, hợp đồng lao động(8). Tinh giản biên chế 288 trường hợp theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP và Nghị định 113/2018/NĐ-CP ngày 31/8/2018 của Chính phủ; nghỉ thôi việc theo nguyện vọng và hưởng chính sách hỗ trợ theo các Nghị quyết của HĐND tỉnh đối với 1.318 trường hợp; UBND các huyện, thành phố đã hoàn thành việc sắp xếp những người hoạt động không chuyên trách tại những thôn, tổ dân phố mới theo Nghị quyết số 22/2017/NQ-HĐND ngày 17/7/2017, đến nay toàn tỉnh hiện có 7.227 người (1.023 người cấp xã, 6.204 người ở thôn, tổ dân phố) giảm 11.473 người so với trước khi thực hiện Nghị quyết.
- Về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức: UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương thường xuyên chủ động, rà soát, sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đảm nhận nhiệm vụ phù hợp với trình độ chuyên môn đào tạo, năng lực công tác, đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm; thực hiện phân công, cơ cấu lại từng vị trí việc làm theo chức năng nhiệm vụ đảm bảo hợp lý về chuyên môn, chức danh nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính. Công tác tuyển dụng được thực hiện bằng hình thức thi tuyển và theo vị trí việc làm và đảm bảo theo nguyên tắc chỉ tuyển dụng trong phạm vi số biên chế được giao và thay thế không quá 50% số tinh giản biên chế, nghỉ hưu đúng tuổi, thôi việc theo quy định; Công tác bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo được đổi mới, đã thực hiện thí điểm thi tuyển lãnh đạo quản lý cấp phòng và tương đương qua đó đã tuyển được 05 vị trí lãnh đạo cấp phòng; thực hiện luân chuyển cán bộ về cơ sở đối với 30 công chức cấp huyện về cấp xã để đảm nhiệm các chức danh bí thư, phó bí thư, chủ tịch UBND cấp xã; đã tổ chức 199 lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức với 24.980 học viên, hiện nay 100% cán bộ, công chức, viên chức cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã đạt chuẩn theo quy định.
- Về nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức: UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 150/KH-UBND ngày 23/9/2019 về việc triển khai thực hiện phong trào “Cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Vĩnh Phúc thi đua thực hiện văn hóa công sở giai đoạn 2019-2025” nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức và hành động, nâng cao ý thức, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức. Từ tháng 01/2018 đến nay, sở Nội vụ đã thực hiện kiểm tra công vụ đột xuất tại 263 cơ quan, đơn vị, qua kiểm tra nhìn chung các cơ quan, đơn vị đều chấp hành nghiêm túc kỷ luật, kỷ cương, văn hóa công sở, nhưng vẫn còn một số cán bộ, công chức, viên chức vi phạm về hút thuốc lá nơi công sở, vắng mặt trong giờ làm việc không có lý do, đoàn kiểm tra đã kiến nghị với Thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức kiểm điểm đối với cá nhân vi phạm và có giải pháp, khắc phục kịp thời.
4.2. Công tác cải cách tư pháp
Công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh được quan tâm, chú trọng. Chất lượng thẩm định văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được nâng cao, đảm bảo kiểm soát được tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của văn bản. Trong giai đoạn 2016-2019, ngành Tư pháp đã tham gia và thẩm định 425 lượt dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh, trong đó có 125 dự thảo Nghị quyết của HĐND tỉnh và 300 dự thảo Quyết định của UBND tỉnh. UBND tỉnh đã chủ động tự kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành, qua đó kịp thời xử lý những sai sót theo thẩm quyền và quy định của pháp luật. Việc rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nghiêm túc theo đúng kế hoạch, qua rà soát số văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực hoặc chưa có hiệu lực là 691 văn bản, UBND tỉnh đã chỉ đạo kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương. Kết quả của công tác này góp phần quan trọng vào quản lý hiệu quả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của địa phương.
Công tác quản lý, xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật được thực hiện thường xuyên. Hàng năm, UBND tỉnh đã ban hành các kế hoạch và chỉ đạo các sở, ban, ngành và UBND các cấp thực hiện nghiêm công tác thi hành Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND tỉnh; theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm; theo dõi tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Các hoạt động bổ trợ tư pháp được triển khai hiệu quả. Trong đó có 24 tổ chức hành nghề công chứng, thực hiện được hơn 400 ngàn việc, thu phí gần 80 tỷ đồng; 11 tổ chức đấu giá tài sản, đã tổ chức đấu giá thành công gần 400 cuộc với tổng giá bán tài sản là hơn 5,1 nghìn tỷ đồng; ngoài ra tỉnh có 19 tổ chức hành nghề luật sư và 3 văn phòng thừa phát lại. Hoạt động của các đơn vị bổ trợ tư pháp đã và đang góp phần quan trọng trong việc thực thi pháp luật, đảm bảo sự an toàn pháp lý cho các hoạt động giao dịch dân sự trên địa bàn tỉnh.
Công tác trợ giúp pháp lý nhà nước được thực hiện tốt, đã có 2.378 vụ việc trợ giúp pháp lý được thụ lý, qua đó đã góp phần giúp cho các đối tượng tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý hiệu quả, giúp cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng và các cơ quan tổ chức liên quan giải quyết vụ việc khách quan, công bằng và đúng pháp luật.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được các cấp, các ngành triển khai có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng đối tượng, địa bàn và gắn với nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương, nhu cầu thực tiễn đời sống nhân dân. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật các điểm nóng, các vấn đề thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội, góp phần nâng cao hiểu biết, ý thức trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật, hình thành thói quen tự giác chấp hành pháp luật trong xã hội.
Công tác hành chính tư pháp, được quan tâm, trú trọng và triển khai đồng bộ, bước đầu đạt được những kết quả quan trọng. Lĩnh vực hộ tịch, chứng thực, lý lịch tư pháp đã và đang được ứng dụng công nghệ thông tin để triển khai nghiệp vụ. 100% việc hộ tịch tại Trung tâm phục vụ hành chính công đúng hạn và trước hạn (kế hoạch trên 90%), trong đó có nội dung hoàn thành trước chỉ tiêu do Bộ Tư pháp yêu cầu như: việc triển khai thực hiện Phần mềm hộ tịch dùng chung trên địa bàn tỉnh từ tháng 5/2018 (kế hoạch: 31/12/2019); công tác bồi dưỡng cấp chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cho gần 200 công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn tỉnh tháng 06/2018 (kế hoạch: hoàn thành trước 01/01/2019).
III. HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN
- Tăng trưởng kinh tế của tỉnh chưa có sự đột phá so với các địa phương trong cùng khu vực. Thu nhập thực tế của người dân thấp hơn so với mặt bằng trung bình cả nước9. Môi trường đầu tư, kinh doanh chậm cải thiện, xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) giảm trong các năm đây 10.
- Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa bền vững. Sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh chủ yếu là gia công, lắp ráp. Phần lớn các doanh nghiệp sử dụng công nghệ trung bình, nhiều lao động và tiêu tốn năng lượng. Chưa thu hút được các doanh nghiệp lớn đầu tư vào các lĩnh vực sử dụng công nghệ cao. Hạ tầng kỹ thuật một số khu, cụm công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu. Phát triển các khu công nghiệp chưa gắn liền với các thiết chế như nhà ở, trường học, bệnh viện và khu vui chơi, giải trí cho người lao động đang làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020 thấp hơn trung bình cả nước.
- Tăng trưởng ngành thương mại dịch vụ, ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản chưa đạt mục tiêu đề ra; du lịch chưa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; hạ tầng du lịch và chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu các sản phẩm đặc trưng, chưa khai thác tốt các yếu tố văn hóa, lịch sử riêng có của tỉnh vào sản phẩm du lịch, chất lượng nhân lực làm du lịch thấp. Quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ vẫn là phổ biến; việc liên doanh, liên kết sản xuất giữa nông dân và doanh nghiệp còn hạn chế; rất ít doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
- Số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động không nhiều11, hầu hết có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa (chiếm 97,3%), tập trung ở lĩnh vực xây dựng, thương mại, dịch vụ. Năng lực tài chính, quản trị, hội nhập của các doanh nghiệp còn yếu. Chưa có nhiều doanh nghiệp lớn, giữ vai trò đầu tàu, dẫn dắt. Kinh tế tập thể, hộ gia đình còn nhiều yếu kém; số hợp tác xã kiểu mới chưa nhiều, hoạt động chưa gắn với thị trường, hiệu quả chưa cao.
- Tốc độ tăng tỷ lệ dân cư đô thị trên địa bàn tỉnh còn chậm. Nhiều dự án phát triển đô thị, nhà ở chậm tiến độ, thiếu đồng bộ. Thiếu những khu đô thị, sản phẩm bất động sản có chất lượng cao; chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị và xây dựng thấp. Kết cấu hạ tầng còn thiếu tính hiện đại, nhiều công trình lớn, trọng điểm không đạt tiến độ.
- Quản lý, sử dụng các nguồn lực chưa thật sự hiệu quả, đặc biệt đất đai và đầu tư công. Chất lượng xây dựng kế hoạch đầu tư công, chuẩn bị dự án đầu tư thấp, giải ngân vốn chậm; quản lý, phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước có lúc, có nơi còn dàn trải, hiệu quả kinh tế không cao.
- Hiệu quả quản lý nhà nước ở một số lĩnh vực như đất đai, môi trường, khoáng sản chưa đáp ứng yêu cầu, còn để xảy ra sai phạm ở nhiều địa phương như: hành vi lấn, chiếm đất đai, sử dụng đất đai không đúng mục đích, khai thác đất, đá, cát sỏi không theo quy hoạch, giấy phép... có thời điểm trở thành “điểm nóng” gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội. Chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa tốt, chưa đồng bộ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng.
- Cơ chế quản lý giáo dục còn chậm đổi mới; đội ngũ giáo viên, quản lý giáo dục chưa thật sự đáp ứng yêu cầu. Hệ thống giáo dục ngoài công lập chậm phát triển. Giáo dục thể chất, đạo đức, kỹ năng sống, giáo dục hòa nhập cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng dạy tin học, ngoại ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng thiếu giáo viên ở cấp mầm non, tiểu học và thừa thiếu cục bộ ở cấp THCS, THPT vẫn còn, đặc biệt thiếu giáo viên môn tin học và ngoại ngữ. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS vào học bổ túc văn hóa và học nghề chỉ đạt 26,1%, không đạt mục tiêu đề ra (30-35%). Giáo dục nghề nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động. Nguồn nhân lực của tỉnh còn thiếu cả về số lượng và yếu về chất lượng, đặc biệt là các kỹ sư và công nhân có chuyên môn kỹ thuật cao;
- Các cơ sở dịch vụ khám, chữa bệnh chất lượng cao chưa phát triển; cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực y tế đã được tăng cường nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Xã hội hóa y tế phát triển chậm, y tế công cộng, y tế dự phòng chưa được đầu tư đúng mức. Việc thu hút, ưu đãi cán bộ giỏi, chuyên sâu về công tác tại ngành y tế còn hạn chế.
- Sự xuống cấp về một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống của một bộ phận trong xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Nhiều công trình, giá trị văn hóa truyền thống của các địa phương, các dân tộc chưa được khai thác, phát huy, chưa trở thành nguồn lực cho sự phát triển. Công tác quản lý, sử dụng các thiết chế văn hóa, thể thao ở một số địa phương hiệu quả chưa cao. Chế độ đãi ngộ đối với văn nghệ sĩ, người làm công tác văn hóa, nghệ thuật còn thấp.
- Việc triển khai các dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước còn chậm, hiệu quả không như mong muốn (đặc biệt là là các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 của tỉnh) dẫn đến một số chỉ số xếp hạng của tỉnh chưa cao như: ICT Index, Chỉ số cải cách hành chính. Việc số hóa, tạo lập các cơ sở dữ liệu nền tảng chính quyền điện tử cấp tỉnh triển khai chậm, thiếu đồng bộ, chưa có sự chia sẻ, tích hợp, liên thông.
- Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thật sự trở thành động lực chính để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học sử dụng kinh phí ngân sách chưa thiết thực, chất lượng, hiệu quả thấp. Cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vừa thiếu vừa không đồng bộ. Năng lực tiếp cận các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn hạn chế. Chất lượng nhân lực lĩnh vực khoa học và công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Chất lượng môi trường đô thị, nông thôn, làng nghề, cụm công nghiệp chưa được cải thiện và có xu hướng gia tăng ô nhiễm. Hạ tầng thu gom và xử lý nước thải khu vực đô thị chưa được đầu tư đồng bộ. Chưa xây dựng được nhà máy xử lý rác thải tập trung của tỉnh. Phần lớn lượng rác thải sinh hoạt đô thị và nông thôn mới được thu gom và chôn lấp thông thường, chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu bảo vệ môi trường.
- Công tác nắm bắt, dự báo, tham mưu, phối hợp xử lý tình hình phức tạp ở cơ sở có lúc, có nơi, có việc chưa sâu, chưa kịp thời. Tội phạm, tệ nạn xã hội vẫn còn tiềm ẩn phức tạp. Việc thực hiện tranh tụng trong xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp một số vụ còn hạn chế. Hiện tượng “tham nhũng vặt” còn diễn ra ở một số cán bộ, công chức, viên chức; số vụ việc tham nhũng phát hiện qua thanh tra, kiểm tra còn ít.
2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
2.1. Nguyên nhân khách quan
- Tình hình kinh tế thế giới có những diễn biến phức tạp, khó lường. Thu hút vốn đầu tư những năm gần đây chịu sự cạnh tranh gay gắt của các địa phương lân cận và trong vùng. Chưa thu hút được các dự án đầu tư quy mô lớn, có sản phẩm có giá trị cao tác động lớn đến phát triển kinh tế của tỉnh. Do đó, tốc độ tăng trưởng của tỉnh không có sự tăng đột biến như giai đoạn những năm đầu tái lập tỉnh.
- Trong GRDP của tỉnh thì thuế sản phẩm chiếm tỷ trọng rất lớn (26% năm 2019), phần thuế này chuyển vào ngân sách nhà nước, phần lợi nhuận của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển về nước của nhà đầu tư, do vậy có sự chênh lệch lớn giữa GRDP bình quân đầu người và thu nhập thực tế bình quân đầu người của tỉnh.
- Sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất đặc thù, chịu tác động trực tiếp của thiên nhiên, thời tiết, tính rủi ro cao, hiệu quả sản xuất và lợi nhuận thấp, do đó không hấp dẫn các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn. Giá một số loại sản phẩm chăn nuôi bấp bênh, không ổn định, đặc biệt năm 2019 bệnh dịch tả lợn Châu Phi xuất hiện và lây lan trên diện rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến người chăn nuôi lợn và tăng trưởng của toàn ngành nông nghiệp.
- Các dự án về dịch vụ du lịch, khu đô thị đại học và các dự án bệnh viện tư nhân, bệnh viện vệ tinh,… không triển khai được như dự kiến đề ra, bên cạnh đó quy mô và chất lượng các dịch vụ nói chung còn hạn chế là nguyên nhân chủ yếu khiến ngành dịch vụ có mức tăng trưởng thấp và không đạt so với mục tiêu đề ra.
- Những năm đầu thực hiện Kế hoạch, thị trường bất động sản đóng băng đã gây khó khăn cho các chủ đầu tư trong việc triển khai thực hiện dự án phát triển đô thị, phát triển nhà ở.
- Giai đoạn 2016-2020 là nhiệm kỳ đầu tiên thực hiện Luật Đầu tư công, nên còn nhiều lúng túng và vướng mắc trong triển khai thực hiện. Chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng còn một số nội dung chưa rõ ràng, không đồng nhất, khó thực hiện. Việc bồi thường, giải phóng mặt bằng còn gặp khó khăn do đơn giá bồi thường giải phóng mặt bằng chưa phù hợp với thực tế và chính sách về đất đai thường xuyên thay đổi dẫn đến người dân có tâm lý chờ đợi tăng giá bồi thường, không chịu bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư triển khai dự án.
- Trình tự, thủ tục triển khai các dự án theo quy định của Luật đầu tư công và các Nghị định hướng dẫn qua nhiều khâu, nhiều bước và các cấp, ngành và địa phương, dẫn đến tiến độ triển khai các dự án kéo dài, khó khăn trong việc giải ngân vốn kế hoạch hằng năm.
- Việc triển khai Luật Quy hoạch còn khó khăn, vướng mắc; thời gian lập quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh còn kéo dài trong khi các quy hoạch ngành, lĩnh vực cơ bản sẽ hết thời kỳ quy hoạch vào năm 2020.
- Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tốc độ đô thị hóa, gia tăng dân số nhanh, phương tiện giao thông ngày càng tăng trong khi tốc độ phát triển kết cấu hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu và hạn chế, làm cho vỉa hè, lòng đường, hành lang an toàn giao thông bị chiếm dụng; Chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm chưa đủ sức răn đe, nên vì lợi ích các tổ chức, cá nhân vẫn cố tình vi phạm (hành lang, an toàn giao thông, quá tải trọng …) để hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai, môi trường chưa đầy đủ, thường xuyên điều chỉnh, thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong quá trình triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, nhiều quy định còn chung chung, mang tính nguyên tắc.
- Các chính sách về giáo dục của Trung ương thay đổi nhiều, tuy nhiên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chậm ban hành, hướng dẫn còn thiếu đồng bộ. Sự gia tăng dân số nhanh trong độ tuổi mầm non, tiểu học trong những năm gần đây tạo áp lực cho việc đáp ứng cơ sở vật chất và giáo viên.
2.2. Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu còn hạn chế; công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong một số nhiệm vụ chưa quyết liệt, chưa kịp thời, thiếu chủ động, nhạy bén, sáng tạo.
- Việc phân cấp, phân quyền còn chưa sâu, chưa rõ, chưa gắn với việc phân bổ kinh phí, phân công trách nhiệm ở một số cấp và ngành, có mặt còn nhiều bất cập. Việc lãnh đạo chỉ đạo công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong tổ chức hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu.
- Năng lực thể chế hóa các chủ trương thành cơ chế, chính sách cụ thể và khâu tổ chức thực hiện còn yếu, thiếu sáng tạo, thiếu tính thực tiễn. Thiếu cơ chế, chính sách đột phá để huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển.
- Vai trò, trách nhiệm, của một số người đứng đầu, tính chiến đấu, tính tiền phong gương mẫu của một số cán bộ, đảng viên còn thấp, thiếu ý chí, khát vọng vươn lên, chậm hoặc ngại đổi mới, sáng tạo, né tránh, ngại va chạm, ngại trách nhiệm.
IV. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Mặc dù trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 còn nhiều khó khăn, thách thức, nhiều yếu tố khó lường; nhưng nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vừa quyết liệt phòng, chống dịch bệnh, vừa duy trì, phát triển các hoạt động kinh tế, xã hội: Hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng GRDP liên tục gia tăng trong giai đoạn 2016-2019, tính chung cả giai đoạn 2016-2020 đạt mức cao hơn bình quân giai đoạn trước và cao hơn cả nước. Chất lượng tăng trưởng được nâng lên, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, năng suất lao động được cải thiện. Huy động vốn đầu tư phát triển tăng lên và hiệu quả sử dụng được nâng lên. Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, kết quả thu hút đầu tư đạt cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, nhiều công trình, dự án lớn được đầu tư và đi vào hoạt động; cơ bản xây dựng được hạ tầng khung đô thị theo hướng đồng bộ, hiện đại; bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc. Văn hóa, xã hội chuyển biến tiến bộ; giáo dục luôn xếp trong tốp đầu cả nước; chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên. Thực hiện tốt các chính sách người có công, an sinh xã hội được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được nâng lên. Quản lý khai thác tài nguyên được chú trọng, các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm môi trường ngày càng được quan tâm hơn và đạt một số kết quả. Cải cách hành chính được thực hiện quyết liệt, tập trung cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước được kiện toàn, tinh giản biên chế được đẩy mạnh và đạt kết quả bước đầu. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh, quan hệ với các đối tác tiếp tục được mở rộng, thiết thực và hiệu quả.
Tuy nhiên, nền kinh tế của tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức. Kinh tế phát triển chưa thực sự bền vững; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; nhiều tiềm năng, thế mạnh chưa được khai thác và sử dụng hiệu quả; kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội tương đối đồng bộ nhưng chưa hiện đại; chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển; khoa học công nghệ chưa là động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất; kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể còn có những yếu kém; thu nhập thực tế của nhân dân chưa tương xứng với sự phát triển kinh tế của tỉnh. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế; năng lực, trình độ, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu; cải cách hành chính chưa đạt được như kỳ vọng. Ô nhiễm môi trường có xu hướng gia tăng. An ninh, trật tự xã hội ở một số địa bàn, lĩnh vực còn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp, khó lường.
Một là, Gắn kết chặt chẽ giữa công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Quyết liệt trong đổi mới tư duy, nội dung và phương thức lãnh đạo, chỉ đạo; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; củng cố, xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị. Kế thừa, phát huy truyền thống năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu và cán bộ, đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ bản lĩnh chính trị, năng lực, phẩm chất, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Hai là, Quán triệt quan điểm “Dân là gốc” là mục tiêu, đồng thời là động lực cho sự phát triển; tăng cường mối quan hệ gắn bó, mật thiết với Nhân dân; phát huy vai trò của Nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, cách làm bài bản, dân chủ, chắc chắn, có bước đi thích hợp. Xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá.
Bốn là, Quán triệt quan điểm phát triển toàn diện, phát triển hài hòa trên cả ba trụ cột: Kinh tế - Xã hội - Môi trường, lấy sự ổn định và tăng trưởng kinh tế bền vững là mục tiêu xuyên suốt; trong đó phát triển công nghiệp là nền tảng, động lực của nền kinh tế; tập trung phát triển các ngành dịch vụ, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh; phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện.
Năm là, Phát huy lợi thế của tỉnh, nằm trong vùng 3 quy hoạch: Vùng đồng bằng sông Hồng, Vùng Thủ đô và Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Phải đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao thu nhập và phúc lợi của nhân dân; đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM GIAI ĐOẠN 2021-2025
I. DỰ BÁO BỐI CẢNH, TÌNH HÌNH TRONG 5 NĂM TỚI
1. Tình hình quốc tế và trong nước
Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường; cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại giữa các nước lớn, xung đột diễn ra dưới nhiều hình thức gay gắt hơn. Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng rất nặng nề đến tất cả các quốc gia, nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới đang rơi vào suy thoái nghiêm trọng, chưa xác định rõ được thời điểm phục hồi. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Khu vực Đông Nam Á, môi trường an ninh, tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tiếp tục diễn ra phức tạp.
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới 12 mà Việt Nam tham gia sẽ tạo cơ hội thu hút các nguồn vốn, công nghệ, thị trường xuất khẩu cho đất nước, nhưng cũng đi liền với sức ép cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn. Nhiều khó khăn, yếu kém nội tại của nền kinh tế chưa được khắc phục, sức đề kháng của nền kinh tế thấp, già hóa dân số diễn ra nhanh trong khi năng suất lao động vẫn còn thấp. Biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định, nhiều thách thức về an ninh phi truyền thống đang nổi lên. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi, nguy hiểm, phức tạp hơn trong điều kiện mới. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn diễn biến phức tạp.
2.1. Những thuận lợi
Vĩnh Phúc là vùng đất giàu truyền thống văn hoá, cách mạng và luôn có tư duy đổi mới, sáng tạo, nhiều sáng kiến đi đầu trong cả nước. Hiện nay, tỉnh đã có mức phát triển kinh tế khá cao theo hướng công nghiệp, môi trường đầu tư ổn định, có nhiều kinh nghiệm trong thu hút đầu tư, nhiều nhà đầu tư lớn, trong đó có các tập đoàn hàng đầu thế giới đã đầu tư tại tỉnh; đã tạo dựng được uy tín, thương hiệu của tỉnh.
Vĩnh Phúc nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Vùng thủ đô, hệ thống giao thông kết nối với Hà Nội và các tỉnh trong vùng rất thuận lợi, hệ thống cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực đã được quy hoạch và đầu tư khá đồng bộ; có những địa danh du lịch, di chỉ văn hoá nổi tiếng; điều kiện địa chất, khí hậu tốt, ít chịu sự tác động lớn của thiên tai.
Những thành tựu, kinh nghiệm sau gần 24 năm tái lập tỉnh đã tạo thế và lực mới để Vĩnh Phúc tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ, sự ổn định về chính trị, xã hội tiếp tục là điều kiện, nền tảng cơ bản, quan trọng để Vĩnh Phúc tiếp tục phát triển nhanh, bền vững trong các năm tới.
2.2. Những khó khăn và thách thức chủ yếu
Dư địa và không gian cho phát triển không còn nhiều (đặc biệt là đất đai, tài nguyên). Địa kinh tế không còn là thế mạnh của Vĩnh Phúc như trước đây vì sự phát triển của hệ thống giao thông quốc gia. Khả năng tìm kiếm động lực tăng trưởng mới mang tính đột phá trong bối cảnh hiện nay là rất khó.
Chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn thấp, thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là nhân lực đáp ứng được các yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn, kéo dài, chi phí sử dụng hạ tầng công nghiệp đang ngày càng cao ảnh hưởng đến thu hút đầu tư.
Khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, năng lực cạnh tranh, trình độ quản trị thấp, khả năng tiếp cận các nguồn lực hạn chế.
Sức ép về tạo việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh do phát triển đô thị và công nghiệp ngày càng tăng. Biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, khó lường, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân.
II. MỤC TIÊU VÀ CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN GIAI ĐOẠN 2021-2025
Khai thác, phát huy mọi tiềm năng, lợi thế cho phát triển, trọng tâm là phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp có giá trị gia tăng cao; phát huy sức sáng tạo, ý chí, khát vọng phát triển của mỗi người dân; thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; khai thác những động lực mới cho tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ - đổi mới sáng tạo; huy động, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực cho phát triển; tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển văn hóa, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của Nhân dân, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Thực hiện tốt các mục tiêu phát triển bền vững. Củng cố quốc phòng, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Phấn đấu đến năm 2025: Vĩnh Phúc là tỉnh công nghiệp phát triển, một trong những trung tâm công nghiệp, dịch vụ, du lịch của vùng và cả nước; thu nhập thực tế bình quân đầu người cao hơn cả nước, đạt mức 80-85 triệu đồng; kết cấu hạ tầng đô thị Vĩnh Phúc cơ bản đạt tiêu chí đô thị loại I , trong đó, kết cấu hạ tầng đô thị Bình Xuyên, Vĩnh Tường, Tam Đảo cơ bản đạt các tiêu chí của đô thị loại IV, làm tiền đề để thành lập các thị xã.
2.1. Về phát triển kinh tế
(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân tăng 8,5 - 9,0%/năm;
(2) Cơ cấu kinh tế:
+ Công nghiệp - xây dựng chiếm 61,5- 62,0%;
+ Dịch vụ chiếm 32- 32,5%;
+ Nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 6 - 6,5%.
(3) GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 130 - 135 triệu đồng (giá hiện hành).
(4) Tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn hằng năm đạt 30-35% GRDP theo giá hiện hành.
(5) Thu ngân sách nhà nước tăng bình quân 6 - 8%/năm.
(6) Thu hút thêm vốn đầu tư 5 năm:
+ FDI: 2,0 - 2,5 tỷ USD.
+ DDI: 20- 25 nghìn tỷ đồng.
(7) Tốc độ tăng năng suất lao động đạt trên 11%/năm.
(8) Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 50% .
(9) Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 đạt 50%.
2.2. Về phát triển văn hóa - xã hội
(1) Tạo việc làm tăng thêm hằng năm từ 16.000-17.000 việc làm mới.
(2) Thu nhập bình quân của người lao động tại các doanh nghiệp trên 02 lần mức lương tối thiểu vùng.
(3) Phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều theo chuẩn mới còn dưới 1%.
(4) Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 82%, trong đó lao động qua đào tạo được cấp bằng, cấp chứng chỉ đạt 40%.
(5) Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia (theo chuẩn mới) đạt 70% trở lên ở tất cả các cấp học.
(6) Đạt 15 bác sỹ/vạn dân, 40 giường bệnh/vạn dân. Tỷ lệ dân số có bảo hiểm y tế đạt trên 95%;
(7) Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội đạt 45% lực lượng lao động;
(8) 100% thủ tục hành chính đáp ứng yêu cầu, được triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; 75% hồ sơ được giải quyết theo dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tổng số hồ sơ.
(9) Diện tích nhà ở bình quân đến năm 2025 đạt 31,3 m² sàn/người.
(10) Phấn đấu hết năm 2022, toàn bộ các huyện đạt chuẩn nông thôn mới; hết năm 2025 có 40% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; có ít nhất 01 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 10% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
(11) Tai nạn giao thông giảm từ 5-10% đối với từng tiêu chí (số vụ, số người chết và số người bị thương).
2.3. Về bảo vệ môi trường
(1) Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt đạt quy chuẩn môi trường ở khu vực đô thị đạt 97% và khu vực nông thôn đạt 80%. Tỷ lệ chất thải nguy hại và chất thải y tế được xử lý 100%. Tỷ lệ bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt đã đóng cửa được cải tạo, xử lý, tái sử dụng đạt trên 95%.
(2) Tỷ lệ dân số đô thị (thành phố, thị xã, thị trấn) được cấp nước sạch từ hệ thống cấp nước tập trung đạt 85%.
(3) Tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn 02/BHYT đạt 70%.
(4) Phấn đấu tỷ lệ cụm công nghiệp (đang hoạt động hoặc xây dựng mới) có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn 100%.
(5) Tỷ lệ che phủ rừng ổn định 25%.
III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
- Rà soát để sửa đổi, bổ sung, xây dựng lại các quy chế, cơ chế không còn phù hợp, đặc biệt là về phân cấp, về chỉ đạo, điều hành theo hướng giảm tổ chức các hội nghị, cuộc họp không cần thiết thay vào đó là tăng cường đi kiểm tra thực tế tại địa phương, cơ sở; việc chỉ đạo, điều hành được thực hiện thông qua các văn bản, nghị quyết, chỉ thị, cơ chế cụ thể,...
- Chấn chỉnh lề lối, tác phong làm việc của cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng cơ chế thưởng, phạt nghiêm minh. Áp dụng nghiêm quy định về văn hoá công sở như thực hiện nghiêm túc thời gian làm việc, trang phục, văn hóa ứng xử,... kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm. Tăng cường thanh tra công vụ, thanh tra hành chính, thanh tra đột xuất, thanh tra chế độ trách nhiệm,...
- Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, khai thông các nguồn lực đặc biệt là các nguồn lực từ đầu tư công; từ tài nguyên đất đai…
- Đổi mới cơ chế, tổ chức bộ máy xúc tiến cũng như hình thức thu hút đầu tư theo hướng tập trung, tinh gọn, hướng tới cho doanh nghiệp (tăng cường các hình thức xúc tiến đầu tư ở cấp tỉnh).
- Tập trung cho an sinh xã hội, trước mắt trong quý I /2021 phải hoàn chỉnh xong 3 đề án gồm:
+ Đề án chỉnh trang đô thị (trong đó thí điểm làm ngay khu hành chính của tỉnh theo hướng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ: ngày công sở, tối công viên, mở rộng không gian vui chơi cho dân...).
+ Đề án xây dựng nông thôn mới nâng cao và nông thôn mới kiểu mẫu trong đó tập trung vào 3 nhiệm vụ: Hoàn thiện các tiêu chí còn thiếu; lựa chọn mỗi huyện 1-2 xã làm thí điểm nông thôn mới nâng cao (riêng Vĩnh Tường 3 đến 4 xã), 1-2 xã kiểu mẫu.
+ Xây dựng một số cơ chế trong đó khuyến khích đầu tư vào các tiêu chí như văn hoá, môi trường, cây xanh, thể thao, học tập,…
- Tập trung giải quyết các vấn đề còn tồn tại của nhiệm kỳ trước, khoá trước trong đó tập trung vào cơ chế chính sách, đầu tư công, đội ngũ cán bộ, cơ chế phối hợp, các dự án đầu tư.
- Tập trung kiểm tra rà soát ngay các vấn đề “nóng” như: vấn đề về đất đai tại một số khu vực như ở Đại Lải, quy hoạch cấp phép của Tam Đảo, khai thác đất, vấn đề an ninh trật tự, ma tuý, mại dâm, cho vay nặng lãi, đặc biệt vấn đề phòng cháy chữa cháy.
- Khuyến khích tinh thần học tập của toàn dân, triển khai tốt vấn đề khuyến học khuyến tài, xã hội học tập, gia đình học tập, cơ quan học tập, dòng họ học tập,…
- Triển khai đồng bộ các giải pháp để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp trong đó đặc biệt vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế. Tập trung cao độ vào khâu đột phá 1 trong Nghị quyết số 01-NQ/ĐH XVII ngày 16/11/2020 của Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XVII để tháo gỡ các điểm nghẽn. Cụ thể:
+ Điểm nghẽn 1: Tập trung cao độ vào tháo gỡ nút thắt đầu tư công ngay từ khi xây dựng kế hoạch, quy hoạch lựa chọn dự án, chuẩn bị đầu tư, thẩm định phê duyệt, giải phóng mặt bằng,...
+ Điểm nghẽn 2: Rà soát lại toàn bộ 76 các dự án đô thị đã cấp chủ trương đầu tư, kiên quyết thu hồi các dự án đã 5-10 năm không thực hiện.
+ Điểm nghẽn 3: Rà soát hơn 100 dự án thương mại dịch vụ nhỏ lẻ bám theo 2 bên đường. Kiên quyết đẩy nhanh tiến độ, xử lý thu hồi những dự án không đầu tư theo tiến độ đã cam kết.
+ Điểm nghẽn 4: Rà soát quy hoạch đất đồi, ao hồ mặt mặt nước. Kiên quyết 3 không: không lấn hồ, không chặt cây phá rừng, không san phá đồi tự nhiên.
+ Điểm nghẽn 5: Tập trung tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp. Đẩy nhanh tiến độ các dự án. Tăng cường đối thoại, tiếp xúc lắng nghe ý kiến doanh nghiệp.
+ Điểm nghẽn 6: Cải cách hành chính, trọng tâm là thủ tục hành chính. Lập lại đường dây nóng, thiết lập chương trình truyền hình chuyên phản ánh những vấn đề nóng, bức xúc của dân... làm căn cứ để chính quyền thực hiện.
2.1. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế
Tạo môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thuận lợi, đổi mới mạnh mẽ nhằm khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực mới đưa nền kinh tế của tỉnh phát triển nhanh, bền vững. Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang kết hợp giữa chiều rộng với chiều sâu, trọng tâm là tăng năng suất lao động, hàm lượng khoa học và công nghệ cao; nâng cao năng lực quản trị; thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Đẩy nhanh ứng dụng thành quả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào sản xuất, kinh doanh và quản lý xã hội.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Chú trọng phát triển công nghiệp để làm tiền đề tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Tiếp tục khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ; duy trì phát triển các ngành sản xuất và lắp ráp phụ tùng ô tô, xe máy; linh kiện điện tử; các sản phẩm điện tử hoàn chỉnh... là công nghiệp mũi nhọn. Thu hút đầu tư để lấp đầy các khu, cụm công nghiệp hiện có, bổ sung quy hoạch, phát triển các khu, cụm công nghiệp mới ở những nơi có lợi thế như: Khu công nghiệp Đồng Sóc, Khu công nghiệp Sơn Lôi, Cụm công nghiệp Yên Lạc, Xuân Lôi... Xây dựng chính sách đặc thù để thu hút đầu tư các dự án có quy mô đầu tư lớn, sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao, quy mô sử dụng đất thấp. Tăng cường quản lý, vận hành có hiệu quả các khu công nghiệp, cụm công nghiệp theo đúng quy hoạch, không gây ra các tác động có hại đến môi trường.
Phát triển dịch vụ thương mại theo hướng văn minh, hiện đại cùng với hệ thống chợ truyền thống; khuyến khích, xây dựng cơ chế hỗ trợ hoạt động thương mại điện tử trên địa bàn. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng dịch vụ trong các hoạt động tài chính, tín dụng, bảo hiểm, thu thuế, dịch vụ thanh toán, thương mại. Khuyến khích đầu tư các dự án xây dựng các trung tâm thương mại lớn, bệnh viện, lĩnh vực bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, Trung tâm logistics, các trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao, các trường đại học, trung tâm ngoại ngữ, các cơ sở văn hóa, các trường tư thục trên địa bàn. Đa dạng hóa các hình thức vận tải, phát triển vận tải và dịch vụ vận tải theo hướng hiện đại, chất lượng ngày càng được nâng cao với chi phí hợp lý, đảm bảo an toàn, tin cậy, nhanh chóng, tiện nghi và thân thiện với môi trường; Ưu tiên phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt; Cung cấp dịch vụ chất lượng cao đối với các tuyến xe buýt trên địa bàn tỉnh.
Tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tập trung vào phát triển du lịch tâm linh, kết hợp du lịch nghỉ dưỡng có chất lượng cao. Làm tốt quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết phát triển du lịch; xây dựng thương hiệu sản phẩm du lịch gắn các giá trị văn hóa, lịch sử, bản sắc dân tộc. Ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ các khu, điểm du lịch trọng điểm; khuyến khích các nhà đầu tư lớn đầu tư vào lĩnh vực du lịch khu vực Tam Đảo, Tây Thiên, Ngọc Thanh, Đầm Vạc, Sáu Vó, các khu vực lợi thế; hỗ trợ các hoạt động du lịch, các tuyến du lịch kết nối với các khu du lịch trên toàn quốc và khu vực…
Tiếp tục đổi mới phương thức tổ chức sản xuất nông, lâm nghiệp thuỷ sản; thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp; đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, nhất là công nghệ sinh học; nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; chuyển đổi nhanh cơ cấu lao động ở khu vực nông thôn, gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới. Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng áp dụng các quy trình sản xuất an toàn và bền vững. Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ hiện đại và kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Mở rộng các vùng chuyên canh, các vành đai xanh, các tuyến nông nghiệp sinh thái. Kêu gọi đầu tư xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Phát triển thủy sản theo hướng tập trung thâm canh, tăng nhanh năng suất, phát triển bền vững. Khuyến khích tổ chức sản xuất khép kín, liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển mạnh các hình thức hợp tác, liên kết giữa hộ gia đình với các tổ chức tín dụng, tổ chức khoa học, công nghệ và doanh nghiệp. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp để tạo ra thực phẩm sạch, an toàn; xây dựng các mô hình sản xuất theo hướng liên kết chặt chẽ kinh tế hộ với doanh nghiệp, với thị trường. Nghiên cứu xây dựng khu chăn nuôi, sản xuất, nghiên cứu, tiếp thị phức hợp cho sản phẩm chăn nuôi mũi nhọn của địa phương như thịt lợn, gia cầm. Chuyển đổi dần từ nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung, quy mô lớn. Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, tạo môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp nông thôn.
2.2. Phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của các thành phần kinh tế, chú trọng phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khuyến khích phát triển đồng đều các thành phần kinh tế; thực hiện phương châm “Đồng hành cùng doanh nghiệp”, bảo vệ quyền tài sản, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, không phân biệt đối xử, đảm bảo tính bình đẳng trước pháp luật về quyền lợi và cơ hội kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện qua mạng 100% các thủ tục đăng ký kinh doanh, thành lập doanh nghiệp, điều chỉnh giấy phép, tăng giảm vốn, các thủ tục, giấy tờ liên quan khác đến hoạt động doanh nghiệp. Có cơ chế ưu đãi lãi suất tín dụng, giá thuê đất linh hoạt cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận tín dụng, tiếp cận đất đai, giảm chi phí gia nhập thị trường; giải quyết kịp thời các vướng mắc, kiến nghị hợp lý của các nhà đầu tư. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc các dự án chậm tiến độ đã cam kết; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.
Tập trung cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước và hoàn thành việc thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp; đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tự chủ hoàn toàn khi đủ điều kiện; triển khai việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần.
Tăng cường chuyển đổi mô hình hoạt động các hợp tác xã theo đúng Luật Hợp tác xã. Hỗ trợ, hướng dẫn để phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hộ hoạt động hiệu quả. Hỗ trợ hình thành các mô hình sản xuất mới trong nông nghiệp, gắn kết giữa người nông dân với doanh nghiệp.
Khuyến khích, hỗ trợ để hộ gia đình, cá thể kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp. Khuyến khích hình thành các doanh nghiệp lớn như một đầu tàu dẫn dắt các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân. Phấn đấu mỗi năm có từ 1.000-1.500 doanh nghiệp thành lập mới.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo hướng có chọn lọc theo đúng tinh thần Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị, theo đó ưu tiên thu hút các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Hạn chế tối đa thu hút đầu tư các lĩnh vực khai thác khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nhiều đất đai. Thường xuyên hỗ trợ doanh nghiệp/nhà đầu tư trong triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh. Kịp thời giải quyết các vướng mắc, những kiến nghị hợp lý của các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư, định kỳ rà soát, theo dõi để có hướng xử lý thích hợp đối với những dự án có khó khăn; đôn đốc các dự án chậm tiến độ, chậm triển khai hoặc chưa tuân thủ các cam kết; đồng thời, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật. Đặc biệt lưu ý các dự án thuộc các nhóm: có quy mô lớn; chiếm diện tích đất lớn; dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường; dự án tiêu tốn năng lượng,...
2.3. Nâng cao chất lượng lập, quản lý và thực hiện quy hoạch. Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, gắn xây dựng kết cấu hạ tầng khung đô thị Vĩnh Phúc. Giữ vững và nâng cao thành quả xây dựng nông thôn mới
Tổ chức lập và triển khai thực hiện Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trên cơ sở xác định rõ những tiềm năng, thế mạnh của tỉnh để hướng tới xây dựng đô thị Vĩnh Phúc hiện đại, văn minh, có vai trò quan trọng trong trung tâm phát triển của Vùng thủ đô Hà Nội, xứng tầm trong khu vực và cả nước. Nâng cao chất lượng lập quy hoạch đô thị gắn với tăng cường quản lý thực hiện quy hoạch và quản lý xây dựng đô thị. Triển khai lập và tổ chức thực hiện Quy hoạch xây dựng vùng huyện Lập Thạch , vùng huyện Sông Lô đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050; điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng đô thị Vĩnh Phúc; Quy hoạch chung đô thị Tam Đảo (huyện Tam Đảo), đô thị Vĩnh Tường (huyện Vĩnh Tường) đến năm 2040, đô thị Bình Xuyên (huyện Bình Xuyên ) đến năm 2040; Quy hoạch chung các đô thị loại V theo Chương trình tổng thể phát triển đô thị tỉnh Vĩnh Phúc. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch xây dựng. Rà soát, các đồ án chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật đô thị (quy hoạch giao thông, cấp nước, thoát nước, quản lý chất thải rắn) để đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các chương trình, dự án nhằm sớm hoàn thiện hệ thống hạ tầng khung đô thị Vĩnh Phúc.
Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Nâng cao chất lượng kiến trúc cảnh quan đô thị, nhất là các trung tâm đô thị, huyện lỵ, các khu du lịch lớn của tỉnh. Triển khai đề án và xây dựng mô hình đô thị thông minh trên địa bàn tỉnh. Thí điểm xây dựng một số đô thị kiểu mẫu, tạo không gian đặc sắc; xây dựng chương trình phát triển đô thị các huyện, làm tiền đề để thành lập các thị xã khi đủ điều kiện. Tiếp tục rà soát các dự án đô thị đã, đang và chưa triển khai trên địa bàn tỉnh. Kiên quyết xử lý vi phạm của chủ đầu tư, cơ quan quản lý liên quan đến quản lý phát triển đô thị. Ưu tiên thu hút các dự án đô thị, du lịch, thương mại, tài chính, trường đại học, bệnh viện,... chất lượng cao. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thực hiện quy hoạch đô thị và quản lý xây dựng. Từng bước phát triển đô thị thông minh.
Tập trung nguồn lực để đầu tư xây dựng hạ tầng khung đô thị Vĩnh Phúc theo mục tiêu đã đề ra, nhất là các công trình trọng điểm về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội. Xây dựng, nâng cấp một số tuyến giao thông, các cầu kết nối Vĩnh Phúc với các tỉnh, thành phố lân cận, đáp ứng yêu cầu phát triển, liên kết vùng theo quy hoạch như các tuyến đường: đương Vành đai 4 đoạn Hương Canh - Bình Dương giai đoạn 2; đường vành đai 5; đường Tây Thiên - Sông Lô (đoạn QL.2C - Sông Lô); các tuyến hạ tầng phục vụ phát triển du lịch khu danh thắng Tây Thiên, khu du lịch Bến Tắm giai đoạn 2; đường kết nối trung tâm các huyện với các tuyến quốc lộ và trung tâm đô thị Vĩnh Phúc; xây dựng nút giao lập thể trên trục Quốc lộ 2; đường song song đường sắt tuyến phía nam (đoạn từ khu công nghiệp Khai Quang đến đường 36m Khu công nghiệp Bình Xuyên ); đường trục giao thông và cảnh quan Bắc - Nam đô thị Vĩnh Phúc; cầu Vĩnh Phú; các nút giao IC2, IC5 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; cải tạo, mở rộng Quốc lộ 2 đoạn từ trục Mê Linh tại xã Đạo Đức, huyện Bình Xuyên đến thành phố Vĩnh Yên; cầu vượt đường sắt trên đường Kim Ngọc và trên đường Nguyễn Tất Thành (Vĩnh Yên); đường dẫn lên cầu Vân Phúc; tuyến đường kết nối từ sân bay Nội Bài đến Đại Lải; đường ven chân núi Tam Đảo; các tuyến đường kết nối hạ tầng các KCN, CCN;… Hoàn thiện hệ thống trạm, đường dây theo quy hoạch điện lực, trong đó tập trung phục vụ các khu, cụm công nghiệp, các dự án lớn của tỉnh. Tập trung phát triển một số nhà máy nước sạch tại các huyện và phát triển mạng lưới đường ống cấp nước đến các hộ dân. Triển khai đầu tư xây dựng một số dự án trọng điểm như: Đài phát thanh và truyền hình tỉnh; Thư viện tỉnh; Trung tâm triển lãm tỉnh; Khu liên hợp thể thao tỉnh; Nhà máy xử lý nước thải tập trung; cải tạo phần còn lại của đầm Vạc; Trung tâm hội nghị tỉnh; Bến xe khách tỉnh; cải tạo chỉnh trang đô thị, một số khu vực trung tâm huyện và một số xã nông thôn mới nâng cao…
Tập trung nguồn lực cho chương trình xây dựng nông thôn mới nâng cao, theo chiều sâu, gắn với giá trị nhân văn, bản sắc nông thôn Vĩnh Phúc. Có kế hoạch duy trì đạt chuẩn, nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới; trong đó chú trọng giải quyết vấn đề hình thức tổ chức sản xuất, hạ tầng giao thông; đảm bảo cảnh quan; xử lý ô nhiễm môi trường, rác thải, nước thải; nâng cao hiệu quả sử dụng các thiết chế văn hoá, thể thao ở nông thôn.
2.4. Cải thiện môi trường đầu tư, khai thông nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội
Tập trung rà soát loại bỏ những thủ tục, quy định đang làm phức tạp, khó khăn, cản trở các nhà đầu tư; khắc phục tình trạng ban hành những cơ chế chính sách mới không đảm bảo tính khả thi, không thực hiện được hoặc thực hiện không hiệu quả. Xây dựng các cơ chế đặc thù về giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, huy động, sử dụng vốn đầu tư, xây dựng hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu phát triển cho nền kinh tế.
Hoàn thiện cơ chế giải quyết thủ tục hành chính một cửa liên thông “riêng” liên quan đến phát triển doanh nghiệp; cơ chế giám sát trách nhiệm của tổ chức, cá nhân nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp; tiếp tục rà soát loại bỏ hoặc đề xuất các cấp có thẩm quyền loại bỏ những thủ tục hành chính, những quy định không phù hợp, gây khó khăn cho hoạt động đầu tư.
Phấn đấu Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và Chỉ số hiệu quả Quản trị và Hành chính cấp tỉnh (PAPI) hằng năm nằm trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước; Chỉ số Cải cách hành chính cấp tỉnh (Par Index)và Chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông (ICT) hằng năm thuộc nhóm 15 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước.
Quan tâm đầu tư hạ tầng kỹ thuật, chủ động tạo quỹ đất phát triển công nghiệp; lựa chọn các khu công nghiệp có lợi thế, vận dụng các cơ chế chính sách cho giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch để đấu giá, thu hút đầu tư. Sử dụng linh hoạt các nguồn vốn ngân sách nhà nước để đầu tư kết cấu hạ tầng, bồi thường giải phóng mặt bằng các khu, cụm công nghiệp.
Tổ chức lại các cơ quan xúc tiến đầu tư và đổi mới công tác xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, du lịch theo nguyên tắc hiệu quả, thông qua doanh nghiệp, cơ quan ngoại giao trong và ngoài nước. Đổi mới hoạt động xúc tiến và thu hút đầu tư theo chiều sâu. Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư của địa phương trong giai đoạn tới nhằm thu hút đa dạng các nhà đầu tư trong và ngoài nước, trong đó ưu tiên thu hút nhà đầu tư chiến lược có năng lực kinh nghiệm, tài chính, các tập đoàn xuyên quốc gia có công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ “xanh”, thân thiện với môi trường; đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư theo hướng có trọng tâm, trọng điểm vào các đối tác tiềm năng, trong đó chú trọng đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư tại chỗ.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các dự án FDI, DDI sau đăng ký đầu tư; tiếp tục tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án để sớm đưa dự án vào hoạt động phát huy hiệu quả vốn đầu tư; thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đánh giá đầu tư, kiên quyết thu hối giấy chứng nhận đăng ký đầu tư các dự án chậm tiến độ và nhà đầu tư không có năng lực triển khai dự án theo đúng quy định của Pháp Luật.
Tiếp tục cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả, linh hoạt trong sử dụng nguồn vốn đầu tư công; nâng cao chất lượng xây dựng kế hoạch đầu tư công và chuẩn bị các dự án đầu tư. Tăng cường hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư công, linh hoạt trong sử dụng nguồn vốn đầu tư công để tránh tình trạng chồng chéo, lãng phí; đảm bảo tính hiệu quả của các dự án đầu tư công. Tập trung bố trí vốn để hoàn thành và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án quan trọng, các dự án trọng điểm có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Không bố trí vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước vào các lĩnh vực, dự án mà các thành phần kinh tế khác có thể đầu tư. Tạo đột phá thu hút nguồn vốn khu vực tư nhân theo phương thức đối tác công - tư để tập trung đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, đặc biệt đối với các dự án có sức lan tỏa rộng và tác động lớn tới phát triển kinh tế; các dự án hạ tầng xã hội phục vụ cộng đồng dân sinh thuộc ngành y tế, giáo dục…
Thực hiện cơ cấu lại thu ngân sách theo hướng bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là các nguồn thu mới, giữ vững tỷ trọng thu nội địa cao, bảo đảm tỷ trọng hợp lý giữa thuế gián thu và thuế trực thu, khai thác tốt thuế thu từ tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường ,… Củng cố hệ thống các ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, quỹ tín dụng; nghiên cứu áp dụng linh hoạt cơ chế hỗ trợ vay tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nâng cao hiệu quả chi ngân sách, cơ cấu lại chi ngân sách địa phương theo hướng tăng hợp lý tỷ trọng chi đầu tư phát triển, giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên gắn với đổi mới mạnh mẽ khu vực sự nghiệp công lập theo cơ chế tự chủ và tinh giản bộ máy, biên chế, thực hiện cải cách tiền lương. Rà soát các chính sách xã hội, an sinh xã hội để đảm bảo sử dụng ngân sách tập trung và có hiệu quả cao; đẩy mạnh thực hiện khoán chi, đưa vào thu nhập một số chính sách, chế độ theo tiêu chuẩn, định mức chi. Tăng cường phân cấp, phân quyền, gắn trách nhiệm của người đứng đầu trong việc sử dụng nguồn lực, phấn đấu đến năm 2025, có từ 2 đến 3 huyện, thành phố tự cân đối được ngân sách.
2.5. Tăng cường quản lý tài nguyên, nhất là đất đai
Thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đất đai. Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đồng bộ với quy hoạch xây dựng, kế hoạch đầu tư công. Tăng cường công tác phối hợp, xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của các cấp, các ngành, nhất là cấp cơ sở để quản lý chặt chẽ đất đai theo quy định của pháp luật. Duy trì hợp lý diện tích đất trồng lúa theo quy hoạch, phù hợp với từng địa phương. Quản lý chặt chẽ diện tích đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ của tỉnh. Ứng dụng mạnh công nghệ thông tin vào quản lý đất đai. Rà soát các dự án đầu tư của các doanh nghiệp có sử dụng đất, kiên quyết xử lý vi phạm theo quy định; tăng cường thực hiện cơ chế nhà nước thu hồi đền bù tạo quỹ đất để đấu giá, hoặc đấu thầu dự án theo quy định. Giải quyết cơ bản tình trạng lấn, chiếm, sử dụng đất trái phép, những tồn tại lớn về đất đai trong nhiều năm qua.
Quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên, khoáng sản theo quy hoạch, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm. Rà soát tổng thể các dự án về khai thác tài nguyên, phân định trách nhiệm quản lý rõ ràng và xử lý kịp thời vi phạm. Điều tra cơ bản, đánh giá, xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên đất, nước, rừng, khoáng sản và đa dạng sinh học; hạn chế tối đa việc khai thác, sử dụng nước ngầm. Tăng cường thanh tra, kiểm tra tình hình quản lý và cấp phép hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản, việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải và kiên quyết xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật.
3. Phát triển văn hóa - xã hội
3.1. Tập trung phát triển văn hóa, xây dựng con người đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới
Thực hiện có hiệu quả Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong đó tập trung thực hiện tốt việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong tỉnh, các nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội. Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch.
Tập trung đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao đồng bộ từ tỉnh đến huyện, xã. Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Đổi mới phương thức bình chọn, công nhận danh hiệu “gia đình văn hóa”, “khu phố văn hóa”, “đơn vị văn hóa”, “xã, phường, thị trấn văn hóa” hướng vào thực chất. Nhân rộng các điển hình về nếp sống văn minh trong đời sống văn hoá dân cư. Xây dựng chuẩn mực văn hoá ứng xử trong lãnh đạo, văn hóa doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh, văn hóa doanh nhân; khôi phục các giá trị văn hóa truyền thống trong các thôn bản làng, các hương ước, quy ước. Bài trừ tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phòng chống, ngăn ngừa tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình. Tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng hoàn thiện các công trình văn hóa, thể thao gắn liền với phát triển kết cấu hạ tầng xã hội hiện đại, đồng bộ.
Huy động nguồn vốn xã hội hóa cho phát triển phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Chú trọng đầu tư, hỗ trợ hoạt động sáng tạo cho văn nghệ sĩ để nâng cao chất lượng tác phẩm nghệ thuật. Đầu tư có chọn lọc các môn thể thao thành tích cao; đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao quần chúng thành phong trào trong cộng đồng dân cư. Quản lý chặt chẽ và nâng cao chất lượng các hoạt động của các cơ quan báo chí theo đúng định hướng; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và nguồn nhân lực chất lượng cao để nâng cao chất lượng các ấn phẩm báo, chương trình phát thanh, truyền hình, đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí của nhân dân.
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình, cá nhân và cộng đồng thực hiện có hiệu quả công tác Phòng, chống bạo lực gia đình; từng bước giảm thiểu tình trạng bạo lực gia đình. Tăng cường tuyên truyền về bình đẳng giới nhằm nâng cao nhận thức, tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo ở tất cả các cấp trên địa bàn tỉnh.
3.2. Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Triển khai thành công Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Xây dựng môi trường sư phạm trong sạch, lành mạnh; đổi mới phương pháp giáo dục trong dạy văn hoá với giáo dục truyền thống cách mạng, giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, thể chất, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi cho học sinh, sinh viên. Xây dựng và triển khai Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục và đào tạo của tỉnh giai đoạn 2021-2025. Kiên quyết khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục. Phấn đấu giữ vững vị trí trong tốp đầu cả nước về chất lượng giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn; đến năm 2025 phổ cập ngoại ngữ cho bậc tiểu học, 100% số giáo viên ngoại ngữ được đào tạo nâng cao, xây dựng các trung tâm đào tạo, các khoa đào tạo ngoại ngữ chất lượng cao.
Rà soát quy hoạch hệ thống các cơ sở giáo dục và đào tạo. Xây dựng và tổ chức triển khai Đề án đầu tư cơ sở vật chất cho các trường học đáp ứng yêu cầu chuẩn quốc gia giai đoạn 2021-2025; Đề án phát triển hệ thống giáo dục ngoài công lập. Thực hiện lộ trình miễn học phí đối trẻ mầm non 5 tuổi, học sinh phổ thông trong các trường công lập và hỗ trợ học phí cơ sở ngoài công lập đối với trẻ em, học sinh trên địa bàn tỉnh. Quan tâm giáo dục hòa nhập, giáo dục trẻ tự kỷ, trẻ khuyết tật, trẻ đặc biệt, tạo môi trường giáo dục lành mạnh, công bằng và an toàn cho trẻ, đảm bảo 100% số các đối tượng đều được tiếp cận với nền giáo dục như nhau. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đủ tầm, đáp ứng yêu cầu. Triển khai Đề án đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý đảm bảo đạt chuẩn trình độ đào tạo, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2021-2025. Bố trí đủ định mức người làm việc trong các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập. Phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu trường đạt chuẩn quốc gia các mức độ theo tiêu chí mới.
Tiếp tục thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 10- NQ/TU ngày 20/11/2019 của Tỉnh ủy về xây dựng đội ngũ trí thức và trọng dụng nhân tài tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2020-2025.
Nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp; đảm bảo trình độ tay nghề, kỹ năng, văn hóa lao động; gắn kết cung cầu lao động với doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện phân luồng học sinh sau trung học cơ sở; đẩy mạnh công tác tư vấn, hướng nghiệp trong nhà trường với doanh nghiệp và thị trường lao động. Tập trung đào tạo các nghề trọng điểm đạt chuẩn Quốc tế, khu vực cho đội ngũ lao động chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Cơ cấu lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp theo nguyên tắc: Nâng cao chất lượng đào tạo, giao quyền tự chủ; nhà nước và doanh nghiệp đặt hàng đào tạo; ngân sách hỗ trợ đầu tư thiết bị đào tạo có điều kiện thông qua số lượng, chất lượng đào tạo. Tập trung đầu tư cho bồi dưỡng, đào tạo ngoại ngữ, phấn đấu trong nhiệm kỳ 100% số giáo viên dạy ngoại ngữ tiếng Anh phải đạt tiêu chuẩn giáo viên ngoại ngữ khung Châu Âu. Thu hút các Trung tâm, các Trường hoặc mở các khoa đào tạo tiếng Anh, Trung, Hàn, Nhật…
3.3. Phát triển hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân
Tăng cường năng lực phòng bệnh, kịp thời ngăn chặn, không để dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn. Triển khai tốt công tác phòng, chống HIV/AIDS, bệnh lao, bệnh sốt rét. Duy trì vững chắc hệ thống tiêm chủng, mở rộng các cơ sở có đủ điều kiện tiêm chủng trên địa bàn tỉnh, đảm bảo cung ứng đủ số lượng vắc xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Xây dựng và triển khai thí điểm Đề án bác sỹ gia đình trên địa bàn tỉnh. Triển khai đồng bộ các hoạt động phòng, chống các bệnh không lây nhiễm; chú trọng dự phòng, nâng cao năng lực sàng lọc, phát hiện sớm và kiểm soát bệnh tật; đẩy mạnh quản lý, điều trị các bệnh không lây nhiễm, bệnh mạn tính, chăm sóc dài hạn tại y tế cơ sở, nhất là tuyến xã. Tiếp tục triển khai các chương trình, đề án chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; quan tâm chăm sóc sức khoẻ người khuyết tật, người bị ảnh hưởng bởi hậu quả của chiến tranh và các đối tượng chính sách; xây dựng và thực hiện đề án chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.
Tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực cho các bệnh viện tuyến tỉnh, các trung tâm y tế tuyến huyện; phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh, khoa vệ tinh trên địa bàn tỉnh ở các lĩnh vực: Tim mạch, ung bướu, sản, nhi, ngoại chấn thương và các lĩnh vực khác; mạng lưới khoa vệ tinh ở các cơ sở khám chữa bệnh tuyến huyện; tiếp tục đào tạo, luân phiên cán bộ y tế, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới. Phát triển dịch vụ kỹ thuật theo phân tuyến, nhất là tuyến y tế cơ sở. Hoàn thành đồng bộ, đưa vào sử dụng hiệu quả Bệnh viện Sản Nhi và Bệnh viện đa khoa tỉnh mới. Thành lập và phát triển Trung tâm ung bướu, Trung tâm tim mạch trực thuộc Bệnh viện Đa khoa tỉnh; Trung tâm hỗ trợ sinh sản trực thuộc Bệnh viện Sản - Nhi. Triển khai các phòng khám vệ tinh tại các Trung tâm Y tế tuyến huyện (Yên Lạc, Tam Dương, Lập Thạch) để chuyển giao kỹ thuật chuyên môn từ Bệnh viện Đa khoa tỉnh cho các Trung tâm Y tế tuyến huyện. Triển khai hiệu quả hoạt động của trạm y tế xã để thực hiện vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ. Phát triển y học cổ truyền, tăng cường kết hợp với y học hiện đại trong phòng, khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng. Khuyến khích thu hút các loại hình bệnh viện nghỉ dưỡng, trung tâm dưỡng lão. Tăng cường hợp tác và chủ động hội nhập, tranh thủ hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật, đào tạo và tài chính của các Bệnh viện tuyến Trung ương, các tỉnh lân cận, trong nước và các tổ chức quốc tế trong khám và điều trị bệnh cho Nhân dân. Ứng dụng mạnh công nghệ thông tin trong quản lý mạng lưới y tế, quản lý bệnh tật, hồ sơ sức khoẻ người dân, đến năm 2025 phấn đấu đạt 100% số dân được theo dõi, quản lý sức khoẻ. Thiết lập hệ thống sổ sức khoẻ điện tử đến từng người dân. Chuẩn bị các điều kiện để thực hiện lộ trình thông tuyến tỉnh khám, chữa bệnh theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Triển khai thực hiện lộ trình liên thông, công nhận kết quả xét nghiệm, giữa các cơ sở khám, chữa bệnh gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ và khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ ngay tại tuyến dưới. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức của cán bộ y tế; xây dựng bệnh viện xanh - sạch - đẹp, an toàn, văn minh, hướng tới thực hiện chăm sóc toàn diện người bệnh.
Thực hiện tốt các chính sách về dân số - gia đình, chăm sóc trẻ em và người cao tuổi; từng bước nâng cao tầm vóc người dân. Đảm bảo chính sách khám, chữa bệnh cho người nghèo. Xây dựng Đề án chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030; Đề án củng cố, nâng cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến năm 2030; Đề án tầm soát, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh đến năm 2030; Đề án truyền thông về dân số đến năm 2030. Tham mưu cho HĐND tỉnh ban hành và thực hiện hiệu quả Nghị quyết của HĐND tỉnh về hỗ trợ kinh phí thực hiện Chương trình Dân số phát triển giai đoạn 2021-2025.
Đẩy mạnh xã hội hoá, huy động các nguồn lực phát triển các dịch vụ y tế. Đa dạng hoá các hình thức hợp tác công - tư, bảo đảm minh bạch, công khai, cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt công - tư trong cung cấp dịch vụ y tế. Thực hiện giao quyền tự chủ 100% chi thường xuyên cho các cơ sở y tế công lập, phấn đấu đến năm 2025 có ít nhất 02 đơn vị tự chủ hoàn toàn. Tham mưu cho HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết hỗ trợ kinh phí để thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.
Đẩy mạnh phát triển ngành dược, bảo đảm cung ứng đủ thuốc về số lượng, tốt về chất lượng. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất thuốc, vắc-xin, sinh phẩm, thiết bị, vật tư y tế trên địa bàn tỉnh. Tăng cường phát triển nguồn nhân lực, đào tạo cán bộ y tế. Triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách quốc gia về y dược cổ truyền. . Quy hoạch vùng trồng cây thuốc dược liệu có giá trị kinh tế cao, phù hợp với đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng của tỉnh, đồng thời phát triển công nghệ sau thu hoạch, bào chế, sản xuất thuốc, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh, trong nước và xuất khẩu. Tăng cường kiểm tra việc sản xuất, kinh doanh thuốc, thực phẩm chức năng trên địa bàn tỉnh.
Phát triển nguồn nhân lực, đào tạo cán bộ y tế. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo đào tạo, thu hút bác sĩ chuyên khoa cấp I, thạc sĩ y khoa, bác sĩ chuyên khoa cấp II, tiến sĩ y khoa theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh. Ban hành Kế hoạch chuyển giao gói kỹ thuật giai đoạn 2021-2025 và Kế hoạch đào tạo liên lục giai đoạn 2021-2025 để nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ y tế. Bồi dưỡng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ thầy thuốc. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế; xây dựng bệnh viện xanh - sạch - đẹp, an toàn, văn minh, hướng tới thực hiện chăm sóc toàn diện người bệnh. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy chế chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, xâm hại đến nhân phẩm và sức khoẻ thầy thuốc.
3.4. Bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân
Ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả một số chính sách chính sách hỗ trợ giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025. Xây dựng Chương trình việc làm tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025 và xây dựng Chương trình mục tiêu về việc làm, an toàn lao động theo hướng dẫn của Trung ương. Thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch cải thiện môi trường và điều kiện làm việc, mối quan hệ hài hoà, hợp tác giữa doanh nghiệp và người lao động gắn bó lâu dài.
Tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động của Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh đối với công tác tạo nguồn lao động, tìm kiếm thị trường xuất khẩu lao động hướng vào các thị trường có thu nhập cao, an toàn; tăng cường tuyên truyền, giúp người dân nắm rõ các chủ trương, chính sách của Nhà nước và của tỉnh trong lĩnh vực dạy nghề, giải quyết việc làm, giảm nghèo.
Tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII và Chương trình hành động số 62- CTr/TU của Tỉnh ủy khóa XVI về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐND ngày 17/7/2020 quy định chính sách hỗ trợ người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2020-2025.
Hàng năm, tổ chức thực hiện điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy trình, hướng dẫn của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Xây dựng chính sách giảm nghèo của tỉnh, trong đó gồm chính sách về tạo điều kiện ổn định, phát triển sản xuất, việc làm, tăng thu nhập; chính sách về tuyên truyền, hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ xã hội (giáo dục, nhà ở,…); chính sách nâng cao năng lực giảm nghèo… Phấn đấu đến năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều theo chuẩn mới còn dưới 1%.
Triển khai kịp thời, đồng bộ, hiệu quả các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và cơ chế chính sách của tỉnh về ưu đãi người có công; gia đình thương binh liệt sỹ; bảo đảm tất cả hộ gia đình chính sách có mức sống cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú; duy trì không còn hộ gia đình chính sách ở nhà tạm.
Thực hiện tốt công tác trợ cấp xã hội, nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để nâng mức trợ cấp và đối tượng thụ hưởng theo quy định; thực hiện các chính sách đối với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, người cao tuổi, người khuyết tật trên địa bàn. Xây dựng và triển khai các mô hình tư vấn, hỗ trợ thúc đẩy bình đẳng giới; củng cố và phát triển các dịch vụ bảo vệ phụ nữ và trẻ em khi bị bạo hành, bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo hành, xâm hại. Đầu tư cho các cơ sở bảo trợ xã hội đủ điều kiện hoạt động, tạo điều kiện để các đối tượng bảo trợ xã hội tái hòa nhập cộng đồng. Khuyến khích đầu tư, xây dựng nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân; quan tâm đầu tư, hỗ trợ đối với đồng bào dân tộc thiểu số, xã miền núi, vùng tôn giáo.
Tổ chức thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày 12/3/2020 của Tỉnh ủy và Kế hoạch số 96/KH-UBND ngày 08/6/2020 của UBND tỉnh về nâng cao thu nhập và phúc lợi của người dân Vĩnh Phúc đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
3.5. Phát huy vai trò của thông tin và truyền thông góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển
Ban hành và triển khai Nghị quyết về xây dựng chính quyền điện tử tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn 2030; Kiến trúc chính quyền điện tử tỉnh Vĩnh Phúc phiên bản 2.0; Đề án đầu tư hạ tầng thông tin - truyền thông thiết yếu và hệ thống thông tin làm nền tảng chính quyền điện tử tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2020-2025 trên cơ sở Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; Nghị quyết 36a của Chính phủ về Chính phủ điện tử và Đề án xây dựng thành phố thông minh tỉnh Vĩnh Phúc. Phân đâu đến năm 2025, chính quyền điện tử tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong top 15 cấp tỉnh, thành phố.
Xây dựng kế hoạch phát triển, hoàn thiện cơ sở hạ tầng viễn thông, mạng lưới truyền dẫn, bảo đảm chất lượng đường truyền, tiếp tục mở rộng Internet cáp quang, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp liên quan đến sử dụng các dịch vụ công, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp phát triển đồng bộ hạ tầng viễn thông. Nghiên cứu ban hành các cơ chế, chính sách liên quan đến bó gọn hoặc hạ ngầm cáp viễn thông; phủ sóng Wifi tại các khu đô thị, khu du lịch; quản lý chặt và xử lý mạnh tay tình trạng tin nhắn rác, thuê bao điện thoại quảng cáo vặt gây mất mỹ quan đô thị. Nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực hạ tầng bưu chính, bảo đảm bưu chính là nền tảng thúc đẩy phát triển thương mại điện tử, tốc độ tăng trưởng lĩnh vực bưu chính đạt 30%/năm.
Phát triển doanh nghiệp công nghệ trên các lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử, bưu chính, viễn thông, in, xuất bản, phát hành: tối thiểu 1 doanh nghiệp/3.000 dân. Thu hút các tập đoàn, doanh nghiệp lớn hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông.
Triển khai Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh, bảo đảm hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ theo quy hoạch được duyệt. Bảo đảm an toàn, an ninh mạng, hoạt động báo chí - xuất bản đúng định hướng của Đảng, quy định của pháp luật, tạo đồng thuận xã hội để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Quản lý hiệu quả, chống in và xuất bản phẩm lậu; có giải pháp cụ thể thúc đẩy văn hóa đọc, phát triển sách điện tử để phổ cập đến người dân, phấn đấu đạt tỷ lệ sách/người dân của Vĩnh Phúc trong tốp đầu cả nước.
Đẩy mạnh phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, tạo bước đột phá thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, tập trung vào các vấn đề cốt lõi, nền tảng tích hợp cho xây dựng Chính quyền điện tử, thành phố thông minh. Trước mắt, tập trung xây dựng nền tảng chia sẻ, tích hợp dùng chung LGSP để kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các ứng dụng công nghệ thông tin trong tỉnh và kết nối, liên thông với các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin của các Bộ, ngành Trung ương, hướng tới mục tiêu hỗ trợ yêu cầu của người dân, doanh nghiệp với chính quyền.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin bảo đảm 100% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính của 3 cấp tỉnh, huyện, xã được thực hiện trên Hệ thống thông tin một cửa điện tử; dần đưa các dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 kết nối liên thông, đồng bộ với Cổng dịch vụ công quốc gia. Đồng thời, khai thác triệt để mạng truyền số liệu chuyên dùng, đặc biệt quan tâm đảm bảo an toàn thông tin, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh; xây dựng các ứng dụng dùng chung để hoàn thành mục tiêu xây dựng chính quyền điện tử.
3.6. Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ
Tăng cường xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là đầu tư từ doanh nghiệp. Chú trọng phát triển năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, là động lực chính của tăng trưởng kinh tế, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Tập trung vào nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ mới, tham gia các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị gia tăng cao, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, ứng dụng công nghệ, đổi mới công nghệ. Hỗ trợ doanh nghiệp trích lập và sử dụng quỹ khoa học và công nghệ phục vụ đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp.
Tăng cường kết nối, gắn kết với tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia, huy động được lực lượng trí thức hàng đầu đất nước ở các tổ chức khoa học và công nghệ để đồng hành, sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của tỉnh, kết nối với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia và quốc tế, tiếp cận nhanh và tranh thủ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Sử dụng thật sự hiệu quả nguồn ngân sách cho lĩnh vực khoa học, công nghệ. Lựa chọn, tập trung hỗ trợ phát triển công nghệ mới, ưu tiên có khả năng ứng dụng, tạo giá trị gia tăng cao vào phát triển sản phẩm chủ lực của tỉnh. Đẩy mạnh hoạt động thông tin, thống kê khoa học và công nghệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng và hoạt động sở hữu trí tuệ để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và nhà sản xuất trên địa bàn. Xây dựng chương trình hành động với các chỉ tiêu cụ thể để ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong mọi mặt hoạt động ở các cấp, các ngành của tỉnh.
Nghiên cứu từng bước chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo tỉnh theo mô hình hoàn toàn mới và Khu công nghệ 4.0 theo hướng tập trung vào hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), đào tạo, tư vấn, ứng dụng, chuyển giao các công nghệ 4.0.
Quan tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị để có cơ sở khoa học phục vụ tốt nhất sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và con người.
3.7. Tăng cường bảo vệ môi trường; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
Tập trung thực hiện hiệu quả Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI; thực hiện Chiến lược, kế hoạch và các Chương trình hành động quốc gia về biến đổi khí hậu.
Nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, đưa hành động bảo vệ môi trường thành trở thành thói quen, tự giác của người dân; gắn kết chặt chẽ giữa bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội; kiên quyết từ chối các dự án đầu tư nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Xây dựng và đưa vào hoạt động nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt tập trung tại Bình Xuyên, Lập Thạch, Vĩnh Tường và mở rộng nhà máy xử lý rác thải tại Tam Dương với công nghệ xử lý hiện đại. Thực hiện phân loại rác thải tại nguồn, hạn chế sử dụng sản phẩm nhựa, nilon dùng một lần. Đầu tư hoàn thành Nghĩa trang nhân dân cấp tỉnh và Nhà tang lễ thành phố Vĩnh Yên. Tiếp tục ưu tiên đầu tư để từng bước hoàn thiện hạ tầng thiết yếu về bảo vệ môi trường đô thị, nông thôn. Xây dựng chương trình đầu tư xử lý nước thải, trước mắt tập trung tại các đô thị lớn, lưu vực sông. Hoàn thành dự án quản lý nguồn nước và ngập lụt tỉnh, dự án đô thị xanh Vĩnh Yên. Tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng, cải tạo hệ thống nước thải sinh hoạt trong khu dân cư, phát huy vai trò tự giác, tự quản của người dân về bảo vệ môi trường.
Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, xây dựng quản lý và khai thác công trình cấp nước tập trung khu vực nông thôn. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân nâng cao nhận thức về sử dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; hướng dẫn xây dựng các công trình xử lý nước hộ gia đình, công trình vệ sinh, bảo vệ nguồn nước và môi trường.
Giám sát và kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm môi trường, quản lý chất thải; tăng cường công tác bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề. Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân.
Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, cứu hộ, cứu nạn và ứng phó với biến đổi khí hậu. Chủ động xây dựng các phương án phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn; kịp thời ứng phó, khắc phục hậu quả khi có thiên tai xảy ra trên địa bàn.
Triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ, hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị về các chiến lược quốc phòng, an ninh. Nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận lòng dân ngày càng vững chắc. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh trong xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, chống phá của các thế lực thù địch. Chủ động về mọi mặt, sẵn sàng các phương án xử lý tốt các tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh vững mạnh, toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao. Xây dựng lực lượng dự bị động viên và lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. Nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang tỉnh. Tổ chức tốt các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập ứng phó sự cố thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, diễn tập chữa cháy rừng các cấp trong tỉnh và diễn tập chiến đấu phòng thủ cấp xã. Tăng cường nguồn lực, xây dựng thế trận quân sự trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện, thành phố ngày càng vững chắc. Thực hiện tốt công tác tuyển quân và công tác động viên theo quy định của pháp luật. Thực hiện tốt chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội.
Tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh. Chủ động nắm, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình tại từng địa bàn phát sinh phức tạp về an ninh tôn giáo, an ninh xã hội, địa bàn triển khai các dự án, kịp thời giải quyết không để hình thành “điểm nóng”. Phát hiện, tháo gỡ sớm các vụ việc có dấu hiệu đình công, không để phát sinh phức tạp. Giải quyết những vấn đề phức tạp nổi lên về trật tự an toàn xã hội ngay từ cơ sở. Thực hiện các giải pháp kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm, phấn đấu hằng năm điều tra làm rõ đạt 75% trở lên số vụ phạm pháp hình sự, 95% trở lên các vụ trọng án; không để hình thành tội phạm có tổ chức; tội phạm hoạt động theo kiểu “xã hội đen”, không để tội phạm hoạt động lộng hành, gây bức xúc trong nhân dân. Đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, môi trường, tội phạm công nghệ cao; tội phạm về ma túy, tệ nạn đánh bạc. Tăng cường quản lý Nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự. Chú trọng triển khai các giải pháp đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, góp phần kiềm chế tai nạn giao thông. Thực hiện có hiệu quả công tác phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Có các hình thức, biện pháp đẩy mạnh phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc.
Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Quy định của Bộ Chính trị khóa XII về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân, và các quy định của Đảng, Nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Gắn trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý phản ánh kiến nghị của người dân. Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo phải chú trọng đối thoại theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời gian theo quy định và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc giải quyết của các cơ quan, đơn vị; hạn chế tối đa các vụ việc khiếu kiện đông người, phức tạp, kéo dài, vượt cấp, kiên quyết không để phát sinh điểm nóng từ khiếu nại, tố cáo. Chú trọng công tác dân vận chính quyền, công tác hòa giải ở cơ sở, duy trì Tổ công tác chỉ đạo giải quyết các vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài, tạo sự đồng thuận của người dân trong xử lý chấp hành, thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật.
Triển khai đồng bộ, hiệu quả các hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, đối ngoại Nhân dân trên các lĩnh vực cho phép. Quản lý hoạt động đối ngoại chặt chẽ, đúng quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại. Nâng cao chất lượng công tác thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Phát huy tiềm năng người Vĩnh Phúc định cư ở nước ngoài và kiều bào đóng góp có hiệu quả vào các hoạt động đoàn kết, hữu nghị, thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, hướng về xây dựng quê hương. Chủ động xây dựng các mối quan hệ hợp tác hữu nghị với các địa phương, các quốc gia phát triển, quốc gia truyền thống, tăng cường giao lưu văn hóa, hợp tác trên tất cả các lĩnh vực, tạo điều kiện quảng bá hình ảnh của tỉnh ra thế giới.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện của UBND, Chủ tịch UBND các cấp. Xác định rõ vai trò, chức năng nhiệm vụ từng cấp, từng ngành, nâng cao trách nhiệm công vụ, tăng cường toàn diện công tác quản lý nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực: quy hoạch, đầu tư công, quản lý đất đai, tài nguyên, tài chính ngân sách, nội vụ, xây dựng…, chống thất thoát, lãng phí. Thường xuyên thanh tra, kiểm tra công vụ, gắn trách nhiệm giải trình với người đứng đầu cấp và ngành. Kiểm điểm trách nhiệm hành chính hàng tháng có đánh giá xếp loại, làm căn cứ để đánh giá xếp loại hàng năm.
Tiếp tục nghiên cứu, sắp xếp các cơ quan, đơn vị phù hợp với quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ ngành Trung ương. Đảm bảo thu gọn các phòng, ban và tương đương của các cơ quan, đơn vị để hình thành các phòng đa chức năng, đa lĩnh vực. Rà soát, sắp xếp đảm bảo tinh gọn hiệu quả đơn vị sự nghiệp công lập. Sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị. Xây dựng đề án thành lập phường, thị trấn đối với các xã đủ tiêu chuẩn theo quy định.
Thực hiện tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và quy định của Chính phủ. Hàng năm, dành tỷ lệ chỉ tiêu công chức, viên chức phù hợp để thu hút, tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp giỏi, xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ về tỉnh làm việc, trong đó tập trung vào các lĩnh vực như: y tế, giáo dục, xây dựng, giao thông, kinh tế, tài nguyên môi trường…
Triển khai thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, tập trung vào ngoại ngữ, kỹ năng lãnh đạo, chuyên môn nghiệp vụ và đào tạo đội ngũ chuyên gia ở trong và ngoài nước. Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức: Tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về văn hóa công vụ, kỷ luật, kỷ cương hành chính của các cơ quan, đơn vị.
Tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng xây dựng chính quyền điện tử gắn với hoạt động hiệu quả của Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh và bộ phận một cửa cấp huyện, cấp xã; thực hiện hiệu quả cơ chế một cửa liên thông, thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử. Tăng cường phân cấp, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng đơn vị, nhất là người đứng đầu. Giảm tối đa thời gian, chi phí thực hiện các thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục về thành lập doanh nghiệp, thuê đất, cấp phép đầu tư, thuế,… Công khai các quy định về thủ tục hành chính để tổ chức, Nhân dân biết, thực hiện và giám sát. Ban hành và thực hiện hệ thống tiêu chí, đo lường mức độ thực thi công vụ của các tổ chức, cá nhân. Phấn đấu đến năm 2025, tỷ lệ dân số hài lòng về dịch vụ công đạt 86%.
Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp trên địa bàn tỉnh. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Luật gia, Đoàn Luật sư và tổ chức bổ trợ tư pháp. Tăng cường hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và Nhân dân.
1. Căn cứ Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025 tỉnh Vĩnh Phúc; Các sở, ban, ngành; UBND các huyện, thành phố xây dựng kế hoạch 5 năm của ngành, địa phương mình phù hợp với kế hoạch của tỉnh, đồng thời cụ thể hóa thành kế hoạch hàng năm, đảm bảo thực hiện đúng lộ trình kế hoạch đã đề ra, phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021-2025.
2. Giao sở Kế hoạch và Đầu tư căn cứ Kế hoạch 5 năm của tỉnh, xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm báo cáo UBND tỉnh. Theo dõi sát tình hình thực hiện Kế hoạch hàng năm, đề xuất điều chỉnh Kế hoạch 5 năm (nếu cần thiết). Định kỳ tổng hợp tình hình thực hiện Kế hoạch về UBND tỉnh.
3. Các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố nghiêm túc triển khai thực hiện tốt Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025 tỉnh Vĩnh Phúc. Trong quá trình thực hiện có khó khăn, vướng mắc các sở, ngành; UBND các huyện, thành phố báo cáo UBND tỉnh kịp thời để giải quyết./.
|
TM. ỦY
BAN NHÂN DÂN TỈNH |
(1) Trong đó: vốn đầu tư trực tiếp 2.300 tỷ đồng và vốn ngân sách 117 tỷ đồng.
(2) Trong đó: vốn đầu tư trực tiếp 7.914,82 tỷ đồng và vốn ngân sách 117 tỷ đồng.
(3) 13 CCN được thành lập và giao chủ đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng gồm: Lý Nhân, An Tường, Vĩnh Sơn, Đồng Sóc, Thổ Tang- Lũng Hòa (Vĩnh Tường); thị trấn Yên Lạc, Yên Đồng, Tề Lỗ, Minh Phương, Trung Nguyên, Đồng Văn (Yên Lạc); Đồng Thịnh (Sông Lô); Hùng Vương - Phúc Thắng (Phúc Yên). 5 cụm công nghiệp được coi là hình thành Tân Tiến, Việt Xuân (Vĩnh Tường); Hương Canh, Thanh Lãng (Bình Xuyên) và Hợp Thịnh (Tam Dương).
(4) Trên địa bàn tỉnh có 28 chi nhánh ngân hàng cấp I, 9 chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp huyện, 86 phòng giao dịch trực thuộc các tổ chức tín dụng, 31 quỹ tín dụng nhân dân, 12 phòng giao dịch Bưu điện Liên Việt và 136 điểm giao dịch của ngân hàng Chính sách xã hội.
(5) Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ đối với các lĩnh vực ưu tiên, lãi suất tối đa bằng VNĐ đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng.
(6) Chỉ số Cải cách hành chính (PAR INDEX): Năm 2016 xếp thứ 08/63 tỉnh, thành phố; Năm 2017 xếp thứ 20/63 tỉnh, thành phố; Năm 2018 xếp thứ 14/63 tỉnh, thành phố; Năm 2019 xếp thứ 10/63 tỉnh, thành phố (tăng 4 bậc so với năm 2018);
Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước (Chỉ số SIPAS): Năm 2017 đạt 95,75%, xếp thứ nhất trên 63 tỉnh, thành phố; Năm 2018, đạt 88,2%, xếp thứ 13/63 tỉnh, thành phố; Năm 2019 đạt 83,37%, xếp thứ 11/63 tỉnh, thành phố (tăng 2 bậc so với 2018);
Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh (Chỉ số PAPI): Năm 2016 xếp thứ 41/63 tỉnh, thành; năm 2017 xếp thứ 38/63 tỉnh, thành; năm 2018 xếp thứ 16/63 tỉnh, thành (tăng 22 bậc so với năm 2017); năm 2019 xếp thứ 18/63 tỉnh thành.
(7) Trong đó: giáo dục đào tạo giảm 50 đơn vị; y tế giảm 14 đơn vị; phát thanh, truyền hình, văn hóa, thể thao, du lịch giảm 14 đơn vị; Ban Quản lý dự án các cấp giảm 16 đơn vị và sự nghiệp khác giảm 17 đơn vị.
(8) Cắt giảm công chức đạt 8,6%, cắt giảm 1.532 chỉ tiêu viên chức đạt 5,94% và cắt giảm 27 chỉ tiêu lao động hợp đồng theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP đạt 6% so với biên chế giao năm 2015.
9 Thu nhập thực tế của người dân Vĩnh Phúc năm 2018 là 44,4 triệu/người; cả nước là 46,2 triệu/người.
10 Xếp hạng PCI giảm dần: đứng thứ 6 (năm 2015), thứ 9 (năm 2016), thứ 12 (năm 2017), thứ 13 (năm
2018), thứ 17 (năm 2019).
11 Tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động/1000 dân của Vĩnh Phúc là 6,52, trung bình cả nước là 7,6.
12 CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương), EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu), EVIPA (Hiệp định Bảo hộ đầu tư).