Kế hoạch 204/KH-UBND năm 2020 về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025) do tỉnh Vĩnh Phúc ban hành

Số hiệu 204/KH-UBND
Ngày ban hành 29/12/2020
Ngày có hiệu lực 29/12/2020
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Vĩnh Phúc
Người ký Lê Duy Thành
Lĩnh vực Đầu tư,Thương mại

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 204/KH-UBND

Vĩnh Phúc, ngày 29 tháng 12 năm 2020

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM (2021-2025)

Căn cứ Nghị quyết số 08/2020/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 của HĐND tỉnh về Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025), UBND tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025), cụ thể như sau:

Phần I

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 5 NĂM (2016-2020)

I. BỐI CẢNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016-2020

1. Về thuận lợi

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 của tỉnh được thực hiện trong bối cảnh kinh tế thế giới nhìn chung có nhiều yếu tố thuận lợi: kinh tế thế giới có sự phục hồi từ cuối năm 2016; các nền kinh tế lớn và phát triển gồm Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản,… tuy có nhiều bất định về chính sách nhưng đạt mức tăng trưởng tương đối khá; xu thế liên kết và tự do hóa thương mại tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, tăng trưởng thương mại thế giới có chiều hướng tích cực.

Ở trong nước, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 2016-2020 được ban hành và tổ chức triển khai một cách quyết liệt, mạnh mẽ, khơi thông nhiều điểm nghẽn cho phát triển. Sau gần 35 năm đổi mới, thế và lực nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều: tăng trưởng GDP được cải thiện đáng kể, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, lạm phát được kiểm soát; các đột phá chiến lược được thực hiện và thu được kết quả bước đầu; kết cấu hạ tầng được từng bước đầu tư đồng bộ; các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội được quan tâm; quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường có những chuyển biến nhất định; quốc phòng, an ninh được giữ vững.

Trong tỉnh, giai đoạn 2016-2020 tiếp tục kế thừa những thành tựu đạt được của 20 năm tái lập tỉnh với nhiều bài học và kinh nghiệm quý. Vị thế của tỉnh so với các địa phương khác trong vùng và cả nước đã và đang tiếp tục được khẳng định. Sự đoàn kết, thống nhất trong chỉ đạo, điều hành và sự năng động, sáng tạo, quyết liệt trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục được phát huy. Các văn bản quan trọng định hướng cho sự phát triển lâu dài của tỉnh đã được phê duyệt như: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050… Hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có nhiều cơ hội đầu tư, mở rộng thị trường, nâng cao trình độ quản lý.

2. Khó khăn, thách thức

Kinh tế thế giới có những diễn biến phức tạp, khó lường, đan xen lẫn nhau; Xung đột vũ trang xảy ra ở một số khu vực ; đối đầu về chính sách thương mại giữa các khu vực, quốc gia tăng lên nhất là cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã kéo theo hàng loạt động thái lớn về chính sách của các quốc gia, nền kinh tế lớn trên thế giới ,… Sự bùng phát dịch bệnh Covid -19 trên toàn thế giới với diễn biến ngày càng trở nên phức tạp từ đầu năm 2020 có tác động không nhỏ tới phát triển kinh tế - xã hội thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Các nước trên thế giới đã và đang áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội, gây ra gián đoạn chuỗi cung ứng và sản xuất toàn cầu, làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.

Trong nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm; khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động; nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều rủi ro như nợ công, nợ xấu; một số quy định của hệ thống pháp luật, chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu và thực thi chưa nghiêm; tiến độ thực hiện nhiều công trình lớn còn chậm, chưa phát huy hiệu quả; văn hóa - xã hội xuất hiện những vấn đề bức xúc; ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi có xu hướng gia tăng nhưng công tác xử lý còn bất cập; tai, tệ nạn xã hội còn diễn biến khó lường... Dịch bệnh Covid -19 xảy ra năm 2020 tác động lớn đến kinh tế xã hội của cả nước; bên cạnh đó dịch tả lợn Châu Phi đã làm ngành chăn nuôi suy giảm, giá thịt lợn tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân,...

Trong tỉnh còn nhiều vấn đề gặp khó khăn, vướng mắc kéo dài chưa được giải quyết triệt để như: công tác bồi thường giải phóng mặt bằng còn chậm; ô nhiễm môi trường có xu hướng gia tăng; thu nhập bình quân đầu người còn thấp; kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội chưa hiện đại; chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển; lợi thế cạnh tranh về vị trí địa lý của tỉnh so với các địa phương lân cận như Hà Nam, Bắc Ninh, Thái Nguyên,... suy giảm.

II. KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016-2020

1. Về kinh tế

1.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Giai đoạn 2016-2019, tình hình kinh tế trong và ngoài nước có nhiều thuận lợi, do đó kinh tế của tỉnh có mức tăng trưởng GRDP ở mức khá với tốc độ tăng bình quân 8,16%/năm. Quy mô nền kinh tế tiếp tục được mở rộng, GRDP năm 2019 (giá hiện hành) đạt 118.958 tỷ đồng.

Tuy nhiên, trong năm 2020 đại dịch Covid-19 đã xuất hiện và bùng phát trên phạm vi toàn cầu, ảnh hưởng nặng nề đến tất cả các lĩnh vực, dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế thế giới nghiêm trọng nhất kể từ sau đại khủng hoảng 1929-1933. Với tỷ trọng khu vực vốn đầu tư nước ngoài cao, đã và đang hội nhập sâu rộng, có độ mở lớn nhưng tính tự chủ và khả năng chống chịu còn hạn chế nên kinh tế của tỉnh đã chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi đại dịch, do đó tăng trưởng năm 2020 ước đạt 2,21%, giá trị GRDP (giá hiện hành) đạt 122.641 tỷ đồng, gấp 1,56 lần so với năm 2015, đạt mục tiêu đề ra (đến năm 2020: gấp 1,5 lần so với năm 2015).

Theo đó, tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh bình quân 5 năm giai đoạn 2016-2020 ước tăng 6,86%/năm, thấp hơn so với mục tiêu đã đề ra (tăng 7-7,5%/năm), trong đó: Ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 10,4%/năm vượt xa so với mục tiêu đề ra (tăng 7-7,5%/năm) và tiếp tục là ngành có đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh; Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản do chịu tác động của thời tiết bất thường, dịch bệnh xảy ra trên cả cây trồng, vật nuôi, giá cả thị trường nông sản không ổn định… nên tốc độ tăng trưởng bình quân chỉ đạt 1,9%/năm, thấp hơn mục tiêu đề ra (tăng 3,5-4%/năm); Ngành dịch vụ tăng trưởng chậm và chịu tác động rất mạnh bởi đại dịch Covid-19 nên ước bình quân giai đoạn 2016-2020 tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 6,0%/năm, thấp hơn mức tăng trưởng 6,67%/năm giai đoạn 2011-2015 và thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là 10,5-11%.

Bảng 1: Ước thực hiện tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020

TT

Chỉ tiêu

Tốc độ tăng trưởng (%)/năm

Đánh giá

Thực hiện giai đoạn 2011-2015

Giai đoạn 2016-2020

Kế hoạch

Ước thực hiện

 

GRDP

6,10

7-7,5

6,86

Không đạt

1

Khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

3,14

3,5-4

1,9

Không đạt

2

Khu vực công nghiệp - xây dựng

10,15

7-7,5

10,4

Vượt

3

Khu vực dịch vụ

6,67

10,5-11

6,0

Không đạt

4

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm

2,21

3,0

3,3

Vượt

Cơ cấu kinh tế của tỉnh giai đoạn 2016-2020 tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực. Khu vực công nghiệp và xây dựng tiếp tục giữ vai trò đầu tàu trong tăng trưởng kinh tế và giữ tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu GRDP của tỉnh, năm 2019 tỷ trọng khu vực này chiếm đến 62,42% và ước đến năm 2020 chiếm 61,95% tổng giá trị tăng thêm của ba khu vực kinh tế, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra (đến năm 2020: 61,5%). Tỷ trọng hai khu vực kinh tế còn lại là dịch vụ và nông, lâm nghiệp, thủy sản đều theo hướng giảm, trong đó: Khu vực dịch vụ giảm từ 32,22% năm 2016 xuống 30,22% năm 2019 và do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên đến năm 2020 tỷ trọng khu vực này ước chỉ chiếm 29,82% tổng giá trị tăng thêm các ngành kinh tế, không đạt mục tiêu kế hoạch (đến năm 2020: chiếm 31,4%); Tỷ trọng khu vực nông, lâm thủy sản giảm nhanh từ mức 10,14% tổng giá trị tăng thêm năm 2016 xuống chỉ còn 7,37% năm 2019 và dự kiến đến năm 2020 tỷ trọng của khu vực này chiếm khoảng 8,23% tổng giá trị tăng thêm các ngành kinh tế, không đạt mục tiêu kế hoạch (đến năm 2020: còn 7,1%). Nguyên nhân chính dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra là do năm 2020 đại dịch Covid-19 xảy ra, các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng rất thấp dẫn đến tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ giảm so dự kiến đề ra.

Bảng 2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2015-2020

TT

Chỉ tiêu

Mục tiêu KH đến năm 2020

Thực hiện 2015

Ước TH 2020

Đánh giá

1

GRDP (tỷ đồng, giá hiện hành)

1,5-2 lần so với năm 2015

78.644,3

122.640,8

Đạt

 

Tổng giá trị gia tăng

 

54.888,6

91.322,21

 

 

NLTS

 

5.787,4

7.519,94

 

 

CN-XD

 

31.546,6

56.570,74

 

 

Dịch vụ

 

17.554,56

27.231,53

 

2

Cơ cấu GDP (%)

 

 

 

 

 

Tổng giá trị gia tăng

100,0

100,0

100,0

 

 

NLTS

7,1

10,54

8,23

Không đạt

 

CN-XD

61,5

57,47

61,95

Đạt

 

Dịch vụ

31,4

31,98

29,82

Không đạt

Năng suất lao động có sự cải thiện so với giai đoạn trước. Tính đến năm 2019, năng suất lao động của tỉnh đạt 186,63 triệu đồng/lao động, gấp 1,7 lần so với năng suất lao động trung bình của cả nước (110,4 triệu đồng/lao động). Dự kiến đến năm 2020, năng suất lao động của tỉnh đạt 189,6 triệu đồng/lao động/năm. Tính trung bình, giai đoạn 2016-2020 tăng trưởng năng suất lao động dự kiến đạt 8,37%/năm, cao hơn mức bình quân chung cả nước (5,8%/năm).

Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp ngày càng tăng. Giai đoạn 2016-2019, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp có xu hướng tăng lên, ước tính đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 42,7%/năm. Đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng vẫn là yếu tố vốn. Tuy vậy, đóng góp TFP của tỉnh vẫn thấp hơn mức dự kiến của cả nước giai đoạn 2016-2019 là 44,46%.

GRDP bình quân đầu người tiếp tục tăng trưởng, vượt mức bình quân của cả nước. Tính đến năm 2019, GRDP bình quân đầu người của tỉnh Vĩnh Phúc (giá hiện hành) đạt 103,1 triệu đồng/người (tương đương 4.450 USD), cao gấp 1,6 lần so với mức trung bình của cả nước (2.800 USD), đứng 5/11 tỉnh thuộc Vùng Đồng bằng sông Hồng và đứng vị trí thứ 9/63 tỉnh/thành phố cả nước. Dự kiến đến năm 2020, GRDP bình quân đầu người toàn tỉnh dự kiến đạt 104,7 triệu đồng/người, cao gấp 1,45 lần so với GRDP bình quân đầu người năm 2015, tăng bình quân 7,7%/năm.

[...]