Kế hoạch phối hợp liên tịch 176KHLT/BVCSTE-MT-CĐTNĐ-C68-TCTDTT-CTHSSV-HĐĐTW-ĐCT-DSGĐTE NĂM 2012 về phòng, chống đuối nước trẻ em giai đoạn 2012-2015 do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân ban hành

Số hiệu 176KHLT/BVCSTE-MT-CĐTNĐ-C68-TCTDTT-CTHSSV-HĐĐTW-ĐCT-DSGĐTE
Ngày ban hành 26/04/2012
Ngày có hiệu lực 26/04/2012
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Bộ Công An,Bộ Giáo dục và Đào tạo,Bộ Giao thông vận tải,Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,Bộ Văn hoá, Thể thao và du lịch,Bộ Y tế,Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam,Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,Trung ương Hội Nông dân Việt Nam
Người ký Hoàng Minh Toàn,Nguyễn Anh Thắng,Lê Hồng Diệp Chi,Nguyễn Phú Trường,Lê Mạnh Hùng,Nguyễn Hải Hữu,Trần Thị Ngọc Lan,Nguyễn Thị Tuyết Mai,Trần Ngọc Thanh
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

BỘ LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI - CỤC BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM, BỘ Y TẾ - CỤC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG Y TẾ, BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI - CỤC ĐƯỜNG THUỶ NỘI ĐỊA VN, BỘ CÔNG AN - CỤC CẢNH SÁT ĐƯỜNG THUỶ, BỘ VĂN HÓA THỂ THAO DU LỊCH-TỔNG CỤC THỂ DỤC THỂ THAO, BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - VỤ CÔNG TÁC HỌC SINH SINH VIÊN, TRUNG ƯƠNG ĐOÀN TNCSHCM-HỘI ĐỒNG ĐỘI TRUNG ƯƠNG, HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM - ĐOÀN CHỦ TỊCH, TRUNG ƯƠNG HỘI NÔNG DÂN - TRUNG TÂM DSGĐTE
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 176KHLT/BVCSTE-MT-CĐTNĐ-C68-TCTDTT-CTHSSV-HĐĐTW-ĐCT-DSGĐTE

Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2012

 

KẾ HOẠCH

PHỐI HỢP LIÊN TỊCH PHÒNG, CHỐNG ĐUỐI NƯỚC TRẺ EM GIAI ĐOẠN 2012 - 2015

Kết quả khảo sát về tai nạn thương tích Việt Nam (VNIS) năm 2010 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Trường Đại học Y tế Công cộng (ĐHYTCC) tiến hành và thống kê tử vong của ngành y tế trong vòng 5 năm trở lại đây cho thấy, đuối nước là một trong năm nguyên nhân hàng đầu trong số các nguyên nhân gây tử vong ở trẻ em có liên quan đến tai nạn thương tích.

Nguyên nhân của tỷ lệ chết vì đuối nước ở trẻ em cao chủ yếu là do nhận thức của các bậc cha mẹ, người chăm sóc trẻ và bản thân trẻ em về phòng chống đuối nước còn hạn chế; môi trường sống trong gia đình và cộng đồng vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây tai nạn đuối nước trẻ em; việc chấp hành các quy định về an toàn đường thủy chưa nghiêm túc và do vậy hiệu lực, hiệu quả của luật pháp chính sách về vấn đề này còn hạn chế.

Trong giai đoạn 2009-2010 các đơn vị chức năng của 9 Bộ, ngành đã cùng xây dựng và cam kết thực hiện Kế hoạch phối hợp liên ngành phòng, chống đuối nước trẻ em. Nhiu giải pháp đã được triển khai như tuyên truyền nâng cao nhận thức, tổ chức dạy bơi cho trẻ em, xây dựng các mô hình an toàn cho trẻ em, tăng cường kiểm tra, giám sát các quy định của luật pháp về an toàn giao thông đường thủy... Kế hoạch này đã đem lại nhiu kết quả tích cực, strẻ em chết vì đuối nước bước đầu đã giảm.

Tuy nhiên, số lượng trẻ em chết vì đuối nước vẫn còn cao. Theo thống kê chưa đầy đủ, trung bình hàng năm trong giai đoạn 2005-2010 vẫn còn khoảng 3.500 trẻ em chết vì nguyên nhân này. Điều đó đòi hỏi sự cam kết và vào cuộc mạnh mẽ của các cơ quan, tổ chức có liên quan.

Nhằm đảm bảo quyền sống còn của trẻ em như quy định tại Công ước về Quyn trẻ em của Liên Hợp Quốc mà Việt Nam phê chuẩn, và thực hiện Chỉ thị số 1408/CT-TTg ngày 1 tháng 9 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em”, trong đó có công tác phòng, chống đuối nước cho trẻ em, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn Hóa thể thao và Du lịch, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công An, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh xây dựng và ký kết Kế hoạch liên tịch phòng, chống đuối nước trẻ em giai đoạn 2012-2015.

Phần I

THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN ĐUỐI NƯỚC Ở TRẺ EM VÀ KẾT QUẢ CAN THIỆP

1. Thực trạng

Việt Nam đuối nước là nguyên nhân gây tử vong cho trẻ em cao nhất, vượt xa những nguyên nhân tử vong khác. Theo kết quả giám sát của Bộ Y tế trong 6 năm 2005-2010 cho thấy mỗi năm có trung bình 3.500 trẻ em vả vị thành niên (0-18 tuổi) tử vong do đuối nước.

Bảng 1- Số lượng và tỷ lệ trẻ em chết do đuối nước giai đoạn 2005-20101

 

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Tổng số trẻ em tử vong trong năm trong đó, số tử vong do đuối nước

6.938

7.198

7.894

7.020

7.327

7.460

3.564

3.662

3.786

3.523

3.330

2.411

Tỷ suất tử vong chung của trẻ em

(1/100.000 trẻ em)

Tỷ suất tử vong trẻ em do đui nước (1/100.000 trẻ em)

25,8

26,3

26,4

24,4

25,5

24,5

13,3

13,5

10,4

12,26

12,13

8,1

Số liệu thống kê của ngành lao động-thương binh và xã hội trong 2 năm 2009-2010 cũng cho thấy tỷ lệ tử vong do đuối nước ở trẻ em chiếm tỷ lệ cao nhất (trên 50%) trong số trẻ em tử vong vì tai nạn thương tích. Các số liệu cũng cho thấy số ca đuối nước tại nhà chiếm khoảng 30%, đuối nước ngoài gia đình chiếm khoảng 70%, trong đó có 1% đuối nước tại trường học. Số trẻ em bị tử vong do đuối nước thường tăng cao vào dịp hè và trong mùa mưa lũ hàng năm. Đuối nước không trừ một nhóm tuổi nào, và tỷ lệ tử vong do đuối nước ở các nhóm tuổi đều cao2.

Các biện pháp can thiệp đối với đuối nước ở trẻ em tại 15 tỉnh có số tử vong do đuối nước cao nhất năm 2008 đã đem lại nhiều kết quả tích cực. Sau hai năm triển khai (2009-2010) đã có 7/15 tỉnh đã giảm rõ rệt số ca trẻ em chết đuối, 3/15 tỉnh giảm nhẹ, và 5 tỉnh chưa giảm.3 Như vậy, việc phối hợp liên ngành và vào cuộc của toàn xã hội trong triển khai các giải pháp can thiệp, nếu thực hiện nghiêm túc và quyết liệt sẽ giảm được số lượng trẻ em chết vì nguyên nhân đuối nước.còn lại là tăng cao hơn (bảng 2).

2. Nguyên nhân gây đuối nước ở trẻ em

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến đuối nước ở trẻ em, trong đó nổi lên các nguyên nhân chính sau đây:

2.1. Nhận thức và hiểu biết chung về tai nạn chết đuối trẻ em còn thấp. Mặc dù chết đuối nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong cho nhóm trẻ em và vị thành niên (từ 0-19 tuổi) nhưng nhận thức của xã hội và người dân về vấn đề này vẫn còn hạn chế, thể hiện qua việc coi thường sự nguy hiểm đuối nước với trẻ em và cộng đồng, cha mẹ, người chăm sóc trẻ còn thiếu kỹ năng sơ cấp cứu ban đầu khi trẻ bị đuối nước. Tuyên truyền, phổ biến kiến thức và kỹ năng phòng chống đuối nước chưa được chú trọng, mà cụ thể là gần đây thì phương tiện thông tin đại chúng mới chú ý tới vấn đề này.

2.2. Trẻ em thiếu sự quan tâm, giám sát đầy đủ của người lớn. Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tỷ lệ đuối nước cao ở trẻ, đặc biệt là nhóm trẻ nhỏ đó là thiếu sự giám sát đầy đủ của người lớn. Nhiều trường hợp trẻ em bị rơi xuống, sông, hồ, ao, giếng hay bể nước chỉ vì sự thiếu quan sát của cha mẹ, người giữ trẻ trong một khoảng thời gian ngắn do bận làm việc khác. Đối với nhóm học sinh ở lứa tuổi tiểu học, hầu hết các em không có được sự giám sát thường xuyên của người lớn, đặc biệt trong kỳ nghỉ hè vì cha mẹ các em còn bận đi làm. Ngoài ra trẻ em còn bị chết đuối tại các bãi biển, khu vui chơi giải trí, bể bơi mà nguyên nhân chủ yếu là thiếu sự giám sát của người lớn.

2.3. Nhiều trẻ em không biết bơi, không có kỹ năng ứng phó khi có nguy cơ bị đuối nước. Nhiều cuộc khảo sát tại Việt Nam cho thấy hầu hết trẻ em bị đuối nước là do không biết bơi. Theo kết quả đánh giá nhanh của UNICEF ở một trường phổ thông cơ sở tại tỉnh Hà Tĩnh vào tháng 5 năm 2007, cho thấy chỉ dưới 10% học sinh trong trường có thể bơi được khoảng 25 m chiều dài. Không biết bơi nhưng rất nhiều trẻ em thường hay chơi đùa gần hay trong sông, hồ, suối. Các bậc phụ huynh cũng không dạy hoặc không cho các em đi học bơi vì bận bịu với công việc hàng ngày; hoặc lo ngại con em mình có thể bị đuối nước khi biết bơi. Quan niệm thứ hai này ngược lại với bằng chứng trên toàn cầu cho thấy tỷ lệ đuối nước giảm khi trẻ biết bơi.

2.4. Môi trường sống xung quanh trẻ em còn tiềm ẩn nhưng nguy cơ không an toàn. Việt Nam có bờ biển dài, hệ thống ao hồ, sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Tuy vậy, cho đến nay chưa có nhiều hoạt động để giảm thiểu nguy cơ đuối nước do môi trường sống, vẫn còn nhiều ngôi nhà gần sông ngòi, ao hồ không có rào chắn. Đa số các giếng khơi và bể nước không có nắp đậy, nhiều công trình xây dựng không có rào chắn tại các hố nước hoặc không lấp bỏ các hố nước sau khi kết thúc xây dựng. Nhiều tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có rất nhiều ngôi nhà được xây nổi trên sông cùng với nhà vệ sinh hoặc rất gần mặt nước điều đó đã tạo ra các nguy cơ đuối nước, đặc biệt đối với nhóm trẻ nhỏ rất dễ bị ngã xuống nước.

2.5. Ý thức chấp hành các quy định an toàn trong vận tải đường thủy của người dân còn chưa cao.

Hiện nay, trên cả nước có hơn 2.300 bến khách ngang sông, dọc tuyến với hơn 5.000 phương tiện hoạt động, vận chuyển khoảng hơn 80 triệu lượt hành khách hàng năm, chiếm hơn 20% tổng vận tải hành khách của cả ngành giao thông. Luật Giao thông đường thủy nội địa được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004, tuy nhiên, việc thực thi Luật trong thực tế vẫn còn nhiều bất cập như: vẫn có người điều khiển phương tiện ở một số bến chưa có bằng, chứng chỉ chuyên môn; chất lượng phương tiện giao thông đường thủy không được đảm bảo, thiếu thiết bị an toàn nhất là phao cứu sinh; chở quả tải theo quy định, việc sử dụng áo phao cho người tham gia giao thông đường thủy nội địa, nhất là trẻ em còn chiếm tỷ lệ rất thấp... đặc biệt hay gặp ở một số phương tiện chở khách ngang sông (đò ngang), việc quản lý, điều hành hoạt động của bến khách ngang sông của chính quyền ở một số địa phương còn chưa được quan tâm đúng mức. Trong năm 2010, cảnh sát đường thủy đã lập biên bản xử lý hàng nghìn trường hợp vi phạm, tước bằng chứng chỉ chuyên môn 224 trường hợp, đình chỉ hoạt động 751 phương tiện vi phạm. Những yếu tố trên là một trong những nguyên nhân của những vụ tai nạn gây hậu quả rất nghiêm trọng làm mất đi cuộc sống của nhiều trẻ em và cũng có nhiều trẻ em bị mồ côi từ đó4.

2.6. Nghèo đói được coi là một yếu tố tiềm ẩn nguy cơ cao gây đuối nước.

Năm 2003, một nghiên cứu về đuối nước trẻ em tại Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long do Liên minh cứu trợ trẻ em hỗ trợ cho thấy những khu vực thường xảy ra đuối nước là những khu vực nghèo và hầu hết đuối nước thường xảy ra ở những gia đình không có người giám sát trẻ do đó điều này cũng khẳng định những phát hiện trước đây cho rằng phần đa các trường hợp đuối nước xảy ra với nhóm trẻ dưới sáu tuổi. Hầu hết các trường hợp đuối nước xảy ra ngay tại nhà hay khu vực xung quanh nhà của các em. Nhìn chung, các gia đình có trẻ bị đuối nước thường không có đất hoặc cộ rất ít đất, điều này khiến các bậc phụ huynh phải đi làm ăn xa nhà không có điều kiện để chăm sóc con cái, trẻ em sống lênh đênh cùng gia đình ở các làng vạn chài. Tại một số tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long như Long An, Đồng Tháp cha mẹ đã phải đưa trẻ theo khi họ làm việc ngoài đồng hay khi đi đánh cá...và các em thường bị rơi xuống nước khi cha mẹ đang bận rộn với công việc kiếm sống hàng ngày.

3. Kết quả thực hiện Kế hoạch liên ngành phòng chống đuối nước trẻ em giai đoạn 2009-2010

Ngày 19 tháng 10 năm 2009 đại diện 9 Bộ, ngành đã ký cam kết thực hiện kế hoạch liên ngành số 570/KHLN-BVCSTE-CSTE. Sau gần 2 năm nỗ lực thực hiện các hoạt động theo 7 cam kết, đã đạt được một số kết quả tích cực.

3.1. Công tác phòng chống tai nạn thương tích nói chung và phòng chống đuối nước trẻ em nói riêng đã được chỉ đạo tích cực. Các Bộ, ngành đã ban hành các văn bản chỉ đạo các địa phương, cụ thể: Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Quyết định số 548/QĐ-LĐTBXH ngày 6/5/2011 về tiêu chí Ngôi nhà an toàn và chỉ đạo địa phương thực hiện mô hình Ngôi nhà an toàn phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em trên toàn quốc. Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai Quyết định số 170/QĐ-BYT ngày 17/01/2006 và Thông tư số 13/TT-GDĐT về hướng dẫn xây dựng cộng đồng an toàn, nhà trẻ mẫu giáo an toàn phòng, chống tai nạn thương tích.

[...]