Hướng dẫn 20-HD/BTGTW thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TW về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành

Số hiệu 20-HD/BTGTW
Ngày ban hành 28/10/2011
Ngày có hiệu lực 28/10/2011
Loại văn bản Hướng dẫn
Cơ quan ban hành Ban Tuyên giáo Trung ương
Người ký Phạm Văn Linh
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
BAN TUYÊN GIÁO
--------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
----------------

Số: 20-HD/BTGTW

Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2011

 

HƯỚNG DẪN

TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 02-NQ/TW, NGÀY 25/4/2011 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC KHOÁNG SẢN VÀ CÔNG NGHIỆP KHAI KHOÁNG ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

Ngày 01 tháng 3 năm 1996, Bộ Chính trị (khóa VII) đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW "Về định hướng chiến lược tài nguyên khoáng sản và phát triển công nghiệp khai khoáng đến năm 2010". Sau 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, nhận thức của các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương về vai trò tầm quan trọng của khoáng sản đã được nâng lên, hầu hết các nội dung chủ yếu của Nghị quyết đã được thực hiện. Ngành công nghiệp khai khoáng đã có bước phát triển đóng góp ngân sách nhà nước hằng năm khoảng 25 - 26%.

Tuy nhiên việc triển khai Nghị quyết còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém: một số cấp ngành chưa thực sự quan tâm đúng mức tới việc tổ chức triển khai Nghị quyết; công tác tuyên truyền phổ biến còn hạn chế, chưa làm rõ vai trò khoáng sản và phát triển ngành khai thác, chế biến khoáng sản trong phát triển kinh tế - xã hội. Ý thức chấp hành pháp luật về lĩnh vực này của nhiều địa phương tổ chức và cá nhân chưa nghiêm túc, còn chạy theo lợi ích cục bộ, gây lãng phí lớn tài nguyên.

Ngày 25-4-2011, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TW "về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030". Việc nghiên cứu, quán triệt và thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phát triển khoáng sản và công nghiệp khai khoáng ở nước ta hiện nay.

Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Tuyên giáo Trung ương hướng dẫn việc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW như sau:

I. MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU

1. Mục đích

Nâng cao nhận thức, ý thức hành động và trách nhiệm của các ngành, các cấp, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về khoáng sản và công nghiệp khai khoáng. Thực hiện tốt các quan điểm, mục tiêu, giải pháp phát triển khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đã đề ra trong Nghị quyết 02-NQ/TW.

2. Yêu cầu

- Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình, chỉ đạo quán triệt, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch, tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đặc biệt là các bộ, ban, ngành được giao nhiệm vụ cụ thể trong Nghị quyết.

- Trong quá trình thực hiện, các cấp ủy đảng chỉ đạo sơ kết, tổng kết, định kỳ báo cáo việc triển khai thực hiện Nghị quyết. Chú trọng việc phát hiện nhân tố, mô hình tiên tiến, điển hình để tuyên truyền, nhân rộng, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc.

II. NỘI DUNG HỌC TẬP, QUÁN TRIỆT VÀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG

1. Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương cần tuyên truyền giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc 5 quan điểm cơ bản của Đảng về chiến lược khoáng sản và phát triển công nghiệp khai khoáng trong thời gian tới như sau:

Một là, khoáng sản là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội đất nước, phải được điều tra, thăm dò, đánh giá đúng trữ lượng và có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sử dụng hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng chung và bền vững của nền kinh tế. Là đại diện chủ sở hữu về khoáng sản, Nhà nước phải thể hiện đầy đủ quyền của chủ sở hữu, nhất là quyền định đoạt đối với khoáng sản khi giao cho tổ chức, cá nhân quản lý, khai thác.

Hai là, tài nguyên khoáng sản nước ta đa dạng về chủng loại; một số khoáng sản có tài nguyên, trữ lượng lớn, do vậy cần phải hình thành một số ngành công nghiệp khai thác, chế biến quy mô công nghiệp với thời gian lâu dài như: dầu khí, bô-xít, titan - zircon, đất hiếm, a-pa-tít, đá nguyên liệu xi măng, đá ốp lát, v.v.. Tuy nhiên, khoáng sản là tài nguyên không tái tạo nên phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hết sức hợp lý, triệt để tiết kiệm, thật sự có hiệu quả cao.

Ba là, việc khai thác tài nguyên khoáng sản phải tính đến nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài của đất nước, có tính đến xu hướng tiến bộ của khoa học công nghệ trong lĩnh vực sử dụng công nghệ mới và vật liệu thay thế.

Bốn là, nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề, từng bước làm chủ việc thăm dò và khai thác, chế biến khoáng sản, đầu tư thêm thiết bị và công nghệ tiên tiến cho công tác địa chất, khai khoáng và chế biến khoáng sản.

Năm là, phát triển công nghiệp khai khoáng phải đi đôi với bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường, bảo vệ cảnh quan, di tích lịch sử, văn hóa; bảo đảm hài hòa lợi ích thu được từ khai thác và chế biến khoáng sản giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến.

2. Nắm vững các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể về phát triển khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, là:

2.1. Mục tiêu chung

- Thứ nhất, phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành công tác lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1: 50.000 và các diện tích biển ven bờ sâu đến 30 m nước. Xây dựng chuyên ngành điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản ở mức hiện đại, đủ năng lực tìm kiếm, phát hiện mỏ mới với độ sâu đến 1.000 m nhằm đánh giá đầy đủ, toàn diện tiềm năng khoáng sản trên đất liền, ở đáy biển và thềm lục địa của đất nước.

- Thứ hai, nâng tỷ trọng ngành công nghiệp khai khoáng trong GDP từ khoảng 10% hiện nay lên 15 - 20% vào năm 2020 và tiếp tục tăng vào những năm tiếp theo; tăng tỷ trọng công nghiệp khai khoáng trong sản xuất công nghiệp. Hình thành và phát triển một số ngành công nghiệp khai thác, chế biến sâu như lọc hóa dầu, sắt thép, đồng, chì - kẽm, phân bón, hóa chất, chế biến kim loại quý hiếm (titan, đất hiếm…), alumin - nhôm, điện (điện than, điện khí, điện nguyên tử, điện địa nhiệt), xi măng, vật liệu xây dựng... có tầm cỡ trong khu vực.

- Tăng dự trữ một số khoáng sản chiến lược vì lợi ích lâu dài của quốc gia.

2.2. Mục tiêu cụ thể

- Thứ nhất, đối với công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản cần:

+ Lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1: 50.000 đạt 90% diện tích phần đất liền, diện tích biển ven bờ sâu đến 30 m nước, diện tích các đảo; làm rõ hơn về cấu trúc địa chất, mức độ phân bố khoáng sản và phát hiện, khoanh định các diện tích có triển vọng về khoáng sản.

+ Điều tra, đánh giá ở độ sâu đến 500 m để làm rõ tiềm năng một số loại khoáng sản quan trọng, chiến lược, có quy mô lớn như: chì, kẽm, đồng, thiếc, vàng, sắt, đất hiếm, urani và đầu tư điều tra, đánh giá tổng thể một số khoáng sản có tiềm năng lớn chưa được đánh giá như: bô-xít, than, nước khoáng - nước nóng, đá hoa trắng, cát thủy tinh, đá ốp lát.

[...]