Công văn 9457/BTC-CST năm 2014 điều chỉnh thuế nhập khẩu đối với mặt hàng phân bón do Bộ Tài chính ban hành
Số hiệu | 9457/BTC-CST |
Ngày ban hành | 11/07/2014 |
Ngày có hiệu lực | 11/07/2014 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Bộ Tài chính |
Người ký | Nguyễn Công Nghiệp |
Lĩnh vực | Xuất nhập khẩu,Thuế - Phí - Lệ Phí |
BỘ TÀI CHÍNH |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 9457/BTC-CST |
Hà Nội, ngày 11 tháng 07 năm 2014 |
Kính gửi: |
- Bộ Công Thương; |
Bộ Tài chính nhận được công văn số 581/HCVN-KHKD ngày 29/4/2014 của Tập đoàn hóa chất Việt Nam đề nghị tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh phân bón trong nước, trong đó đề xuất về điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng phân bón.
Về vấn đề này, Bộ Tài chính xin trao đổi với quý cơ quan, đơn vị như sau:
1. Nội dung kiến nghị của Tập đoàn hóa chất:
Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014, Tập đoàn hóa chất Việt Nam đã chỉ đạo các đơn vị thành viên tập trung đẩy mạnh sản xuất, tiết giảm chi phí, mở rộng thị trường, giảm hàng tồn kho, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng thu cho ngân sách, ổn định việc làm và thu nhập cho người lao động và tích cực tham gia các hoạt động phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, các chỉ tiêu chính về sản xuất công nghiệp, doanh thu đều đạt thấp hơn so với cùng kỳ, trong đó sản xuất phân bón đạt thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây (trong 4 tháng đầu năm 2014 so với cùng kỳ năm 2013, giá trị sản xuất kinh doanh phân bón và thuốc bảo vệ thực vật giảm 5,8%; doanh thu giảm 10,6%; tồn kho 685 nghìn tấn trong đó, ure tồn 138 nghìn tấn, tăng gần 900%, NPK tồn kho 274 nghìn tấn, tăng 19%). Nguyên nhân chính như sau:
- Thứ nhất: Lượng phân bón ure và NPK nhập khẩu cuối năm 2013 và đầu năm 2014 tăng mạnh so với cùng kỳ trong khi sản lượng ure của 4 nhà máy trong nước đã dư khoảng 300 nghìn tấn/năm.
- Thứ hai: Sản xuất phân bón NPK trong nước chưa được kiểm soát tốt. Tình trạng doanh nghiệp sản xuất NPK có quy mô rất nhỏ, chủ yếu là sản xuất thủ công; không có thiết bị, con người để kiểm tra chất lượng sản phẩm; sản xuất phân bón giả diễn ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước.
- Thứ ba: Nhà máy sản xuất phân đạm ure của Tập đoàn tại Ninh Bình công suất 560 nghìn tấn/năm mới đi vào hoạt động từ cuối năm 2012 nên các chi phí khấu hao, lãi vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong giá thành sản phẩm. Hơn nữa, than - nguyên liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá thành sản phẩm phải mua với giá cao hơn rất nhiều so với giá được tính toán trong dự án đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ quyết định vào tháng 12 năm 2007, trong khi giá bán ure tăng không đáng kể.
Tập đoàn kiến nghị về thuế nhập khẩu phân bón như sau:
- Đề nghị tăng thuế suất thuế nhập khẩu ure (mã 3102.10.00) từ mức 0-4,5% lên mức chung là 7%.
- Đề nghị tăng thuế suất thuế nhập khẩu NPK (mã 3105.20.00) từ mức 0-6% lên mức chung là 8%.
- Đề nghị tăng thuế suất thuế nhập khẩu DAP (mã 3105.30.00) từ mức 0-4,5% lên mức chung là 8%.
2. Thông tin về tình hình sản xuất, nhập khẩu phân bón 4 tháng đầu năm 2014
- Kim ngạch nhập khẩu: Theo số liệu của TCHQ, kim ngạch nhập khẩu phân bón cả năm 2013 đạt 4,67 triệu tấn về lượng và 1,70 tỷ đô la Mỹ về giá trị, tăng 14,3% về lượng nhưng giảm 2,4% về giá trị so với năm 2012. Trong đó: phân Ure là 798 nghìn tấn, tăng mạnh 58,3%; phân NPK: 421 nghìn tấn, tăng 23,5% và phân bón loại khác là 3,54 triệu tấn, giảm nhẹ 0,9% so với năm 2012.
Nguồn nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc: 2,53 triệu tấn, tăng 18,4% và chiếm 54% tổng lượng phân bón nhập về của cả nước; Nhật Bản: 289 nghìn tấn, giảm 5,4%; Bêlarút: 289 nghìn tấn, giảm 1,3%...và từ một số nước ASEAN: 307 nghìn tấn.
- Tính đến ngày 15/5/2014, tổng lượng phân bón các loại nhập khẩu gần 1,24 triệu tấn, tăng 3,9%. Trị giá nhập khẩu là 386 triệu USD, giảm 20,4% (do giá nhập khẩu bình quân giảm 23,4%). Trong đó, lượng phân bón ure nhập khẩu trong hơn 4 tháng đầu năm 2014 là 29,576 tấn (tương đương 8,9 triệu USD), giảm 69% về lượng và 72% về trị giá so với cùng kỳ năm 2013; lượng nhập khẩu phân NPK trong hơn 4 tháng đầu năm 2014 là 41.228 tấn (tương đương 18,5 triệu USD); lượng nhập khẩu phân DAP trong hơn 4 tháng đầu năm 2014 là 276.337 tấn (tương đương 122.672 triệu USD). Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp phân bón cho Việt Nam trong 4 tháng/2014 với 540 nghìn tấn, tăng 19,7% và chiếm 47% tổng lượng phân bón cả nước nhập về; tiếp theo là Nga: 122 nghìn tấn, tăng mạnh 103,4%; Nhật Bản: 125 nghìn tấn, tăng 39%... so với cùng kỳ năm 2013 và nhập từ ASEAN là 44 nghìn tấn.
- Về tình hình sản xuất, tính chung 4 tháng đầu năm, sản xuất được 739 nghìn tấn phân đạm urê, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2013; khoảng 724,2 nghìn tấn phân NPK, giảm 2,8%; khoảng 544,9 nghìn tấn phân lân (của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam), tăng 6,7%; khoảng 81,1 nghìn tấn phân bón DAP (của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam), giảm 9,3%.
3. Chính sách thuế nhập khẩu hiện hành đối với mặt hàng phân bón
Khung thuế suất thuế nhập khẩu, cam kết WTO, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi và thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo cam kết trong các Hiệp định thương mại tự do trong ASEAN (Atiga), ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Nhật Bản, Việt Nam-Nhật Bản năm 2014 và cam kết cuối cùng đối với mặt hàng phân bón Urê, NPK và DAP như sau:
a) Đối với mặt hàng phân Urê (mã hàng 3102.10.00):
- Khung thuế suất của UBTVQH: 0-7%.
- Theo cam kết WTO thì mặt hàng cam kết ở mức 6,5% và là cam kết cuối cùng;
- Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi của mặt hàng urê được điều chỉnh tăng từ 0% lên 3% áp dụng từ 01/01/2014 (Thông tư số 164/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013).
- Theo Hiệp định ATIGA: năm 2014 là 0% (đây cũng là cam kết cuối cùng trong ATIGA).
- Theo Hiệp định ASEAN-Trung Quốc: Mặt hàng phân bón Urê hiện nay không cam kết cắt giảm thuế quan, mà giữ trong danh mục nhạy cảm. Vì vậy, hiện nay mặt hàng Urê khi nhập khẩu từ Trung Quốc được áp dụng theo mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN, mức MFN hiện hành là 3%).
- Theo Hiệp định ASEAN-Nhật Bản: Mặt hàng phân bón Urê không cam kết cắt giảm thuế quan và được đưa vào danh mục loại trừ. Theo đó, mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt ASEAN-Nhật Bản áp dụng cho mặt hàng Urê khi nhập khẩu từ Nhật Bản được thực hiện theo mức thuế MFN (mức MFN hiện hành là 3%).
- Theo Hiệp định Việt Nam-Nhật Bản: Mức thuế suất cam kết theo lộ trình như sau:
+ Từ 1/4/2014 đến 31/3/2015 là 4%.