Quyết định 710/QĐ-BNN-KTHT năm 2014 phê duyệt kế hoạch đổi mới, phát triển hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành

Số hiệu 710/QĐ-BNN-KTHT
Ngày ban hành 10/04/2014
Ngày có hiệu lực 10/04/2014
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Người ký Cao Đức Phát
Lĩnh vực Doanh nghiệp

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 710/QĐ-BNN-KTHT

Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2014

 

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT KẾ HOẠCH ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP

BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Căn cứ Nghị định số 199/2013/NĐ-CP ngày 26/11/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;

Căn cứ Nghị quyết số 707-NQ/BCS ngày 18/6/2013 của Ban cán sự Đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, phát triển các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp;

Theo đề nghị của Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Kế hoạch Đổi mới, phát triển các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp (có bản kế hoạch chi tiết kèm theo).

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Điều 3. Chánh Văn phòng Bộ, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị liên quan thuộc Bộ, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 

 

Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Thủ tướng Chính phủ (để b/c);
- Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh (để b/c);
- Văn phòng Chính phủ;
- Các Bộ: KH&ĐT; Tài chính;
- Bộ trưởng và các Thứ trưởng;
- Ban cán sự Đảng Bộ;
- Lưu: VT, KTHT.

BỘ TRƯỞNG




Cao Đức Phát

 

KẾ HOẠCH

ĐỔI MỚI PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC KINH TẾ HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP[1]
(Ban hành kèm theo Quyết định số 710/QĐ-BNN-KTHT ngày 10 tháng 4 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

Quán triệt quan điểm, mục tiêu và nội dung của Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX về "Tiếp tục đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" và Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/2/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX; Nghị quyết số 707-NQ/BCS ngày 18/6/2013 của Ban cán sự Đảng Bộ Nông nghiệp và PTNT về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, phát triển các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp và Nghị định số 193/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng kế hoạch toàn ngành về “Đổi mới, phát triển các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp".

Khái niệm “Kinh tế hợp tác” trong lĩnh vực nông nghiệp thể hiện trong bản kế hoạch này bao gồm khu vực kinh tế tập thể (tổ hợp tác, hợp tác xã của người sản xuất, chủ yếu là nông dân, các chủ trang trại nông nghiệp) và các liên kết kinh tế thông qua hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp với người sản xuất (cá nhân, nông dân, chủ trang trại) hoặc doanh nghiệp với tổ hợp tác, hợp tác xã của người sản xuất, hoặc giữa tổ chức kinh tế tập thể với người sản xuất để cung cấp các dịch vụ đầu vào, đầu ra của sản xuất nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến, thương mại nông sản, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất trong các chuỗi giá trị.

I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP NHỮNG NĂM QUA

1. Thực trạng tổ hợp tác, hợp tác xã trong nông nghiệp thời gian qua

Trong lĩnh vực nông nghiệp, hiện cả nước có khoảng 9.725 hợp tác xã, trong đó 9.056 HTX nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi); 129 HTX lâm nghiệp; 480 HTX thủy sản và 60 HTX diêm nghiệp và 136.097 tổ hợp tác, trong đó 3.600 là tổ, đội thủy sản đánh bắt xa bờ, 8341 tổ thủy lợi, trên 100.000 tổ hợp tác trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp... Các HTX phân bố chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng, Miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long theo thứ tự là 38,9%, 24% và 11,6%; còn lại là ở các vùng khác.

Các tổ hợp tác phân bố tập trung ở các vùng như Đồng bằng sông Cửu Long khoảng 60%, Miền núi phía Bắc trên 15% và Đồng bằng sông Hồng là gần 10%, các vùng còn lại khoảng 15%.

Nhìn chung các tổ hợp tác và hợp tác xã hoạt động đúng Luật, tạo sự liên kết hợp tác sản xuất trong nông nghiệp, một số hợp tác xã, tổ hợp tác hoạt động có hiệu quả, được bà con nông dân tín nhiệm.

Tuy nhiên, các HTX chủ yếu làm dịch vụ nông nghiệp tổng hợp, chưa có nhiều các HTX chuyên ngành. Nhìn chung các tổ hợp tác và hợp tác xã đều hoạt động chưa hiệu quả và thiếu bền vững, đa số HTX hoạt động cầm chừng do thiếu vốn, thiếu tài sản và do cung cách quản lý yếu kém. Tỷ lệ các HTX xếp loại khá chỉ chiếm từ 10% - 20%, còn lại là các HTX trung bình và yếu. Các tổ hợp tác thành lập chủ yếu để giúp nhau kỹ thuật và cung cấp dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất, nhưng quy mô trung bình của tổ hợp tác rất nhỏ, phổ biến chỉ từ 10 đến 30 hộ/tổ. Mỗi năm có đến 11.000-12.000 tổ hợp tác được thành lập mới nhưng cũng có đến 7.000-8.000 tổ giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động.

2. Tình hình phát triển liên kết sản xuất trong nông nghiệp

Do yêu cầu phát triển quy mô sản xuất nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường, các hình thức liên kết trong sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ hàng hóa đã phát triển với nhiều hình thức đa dạng phù hợp với điều kiện sản xuất của từng vùng và địa phương. Tuy nhiên, các hình thức liên kết sản xuất trong nông nghiệp phát triển chậm và còn nhiều khó khăn. Tỷ trọng giá trị sản phẩm được sản xuất, chế biến tiêu thụ qua hợp đồng vẫn còn rất thấp. Nhiều mặt hàng xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, chè, rau quả, chế biến gỗ, tỷ lệ tiêu thụ qua hợp đồng chỉ chiếm từ 3% - 15%. Trong các mô hình liên doanh, liên kết, doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư và phát triển thị trường, nhưng doanh nghiệp thường thông qua thương lái thu gom nông sản, chưa quan tâm nhiều đến phát triển liên kết trực tiếp với nông dân. Sự phát triển chậm và yếu của khu vực kinh tế hợp tác đang hạn chế khả năng đầu tư và liên kết của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.

Những hạn chế nêu trên có những nguyên nhân chủ yếu là:

- Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân về vai trò và tầm quan trọng của kinh tế hợp tác trong nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa chưa sâu sắc. Lối tư duy về mô hình HTX cũ còn nặng nề, chưa xem tổ hợp tác, HTX như đòn bẩy thúc đẩy kinh tế hộ nông dân và là đối tác hợp tác hiệu quả của doanh nghiệp khi đầu tư, sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.

- Các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác chưa thực sự đủ mạnh và còn nhiều bất cập, chưa tạo cơ chế thúc đẩy các hợp tác xã phát triển. Việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về HTX trong nông nghiệp yếu, chồng chéo và chưa rõ ràng, chưa được quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các ngành, các cấp.

[...]