THÔNG BÁO
TÌNH
HÌNH TAI NẠN LAO ĐỘNG NĂM 2007
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
thông báo đến các ngành, các địa phương tình hình tai nạn lao động trong năm
2007 và một số giải pháp chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa sự cố và tai nạn lao động
trong năm 2008 như sau:
A. TÌNH HÌNH CHUNG
I. Số vụ tai nạn lao động
(TNLĐ)
Theo báo cáo của 64 tỉnh, thành phố,
tình hình tai nạn lao động trong năm 2007 như sau:
- Tổng số vụ tai nan lao động:
5.951 vụ, trong đó có 505 vụ tai nạn lao động chết người, 78 vụ có từ 2 người bị
nạn trở lên, đặc biệt là vụ sập 2 nhịp dẫn cầu Cầu Thơ ngày 26/9/2007 làm chết
53 người, bị thương 80 người và vụ sạt lở núi đá tại mỏ đá D3 công trình thuỷ
điện Bản Vẽ (Nghệ An) ngày 15/12/2007 làm chết 18 người;
- Tổng số người bị nạn: 6.337 người,
trong đó có 621 người chết và 2.553 người bị thương nặng.
II. Tình hình TNLĐ ở các địa
phương
1. Mười địa phương xảy ra nhiều vụ
tai nạn lao động chết người trong năm 2007
TP. Hồ Chí Minh có 117 người chết,
622 người bị thương nặng trong tổng số 666 vụ tai nạn lao động;
Vĩnh Long có 57 người chết, 83 người
bị thương nặng trong tổng số 5 vụ tai nạn lao động;
Quảng Ninh có 42 người chết, 147
người bị thương nặng trong tổng số 400 vụ tai nạn lao động;
Đồng Nai có 23 người chết, 104 người
bị thương nặng trong tổng số 1117 vụ tai nạn lao động;
Bình Dương có 23 người chết, 49
người bị thương nặng trong tổng số 653 vụ tai nạn lao động;
Nghệ An có 22 người chết, 43 người
bị thương nặng trong tổng số 63 vụ tai nạn lao động;
Long An có 20 người chết, 20 người
bị thương nặng trong tổng số 35 vụ tai nạn lao động;
TP. Hải Phòng có 19 người chết, 14
người bị thương nặng trong tổng số 89 vụ tai nạn lao động;
TP. Hà Nội có 17 người chết, 45
người bị thương nặng trong tổng số 183 vụ tai nạn lao động;
TP. Đà Nẵng có 17 người chết, 6
người bị thương nặng trong tổng số 36 vụ tai nạn lao động;
2. Một số địa phương có số vụ tai
nạn lao động chết người tăng cao so với năm 2006 là Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng
Nai, Vĩnh Long, Long An, Nghệ An.
B. PHÂN TÍCH CÁC VỤ TAI NẠN LAO
ĐỘNG
Tình hình khai báo, điều tra các vụ
tai nạn lao động hiện nay vẫn chậm so với quy định. Theo báo cáo của 64 Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội thì năm 2007 toàn quốc xảy ra 505 vụ tai nạn lao động
chết người làm 621 người chết, nhưng đến 25 tháng 01 năm 2008, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội mới nhận được 240 biên bản điều tra các vụ tai nạn lao động
nghiêm trọng, chết người làm 265 người chết và 48 người bị thương nặng. Phân
tích từ 240 biên bản điều tra tai nạn lao động chết người, có một số đánh giá
như sau:
I. Những Bộ, ngành xảy ra nhiều
tai nạn lao động chết người
- Các doanh nghiệp thuộc Bộ Công
thương chiếm 19,8% tổng số vụ và 15,36% tổng số người chết;
- Các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng
chiếm 9% tổng số vụ và 12,29% tổng số người chết;
- Các doanh nghiệp thuộc Bộ Giao
thông vận tải chiếm 4,5% tổng số vụ và 21,18% tổng số người chết;
- Các doanh nghiệp thuộc các địa
phương quản lý (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài) chiếm 57,66% tổng số vụ và 45.05% tổng số
người chết;
Năm 2007 tỷ lệ số vụ tai nạn lao động
thuộc các Bộ, ngành quản lý cũng tương tự như năm 2006, ngoại trừ tỷ lệ số người
chết thuộc Bộ Giao thông vận tải quản lý tăng cao hơn do vụ sập 2 nhịp dẫn cầu
Cần Thơ.
II. Những lĩnh vực sản xuất xảy
ra nhiều tai nạn lao động chết người
- Lĩnh vực xây lắp các công trình
dân dụng, công nghiệp và công trình giao thông chiếm 27,86% tổng số vụ và
44,37% tổng số người chết;
- Lĩnh vực khai thác khoáng sản
chiếm 12,93% tổng số vụ và 14,29% tổng số người chết;
- Lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng
chiếm 4,98% tổng số vụ và 5,12% tổng số người chết;
- Lĩnh vực cơ khí chế tạo chiếm
7,8% tổng số vụ và 7,17% tổng số người chết.
III. Các loại yếu tố, thiết bị
gây nhiều tai nạn lao động chết người
- Liên quan đến mặt bằng sản xuất
chiếm 20,2% tổng số vụ và 22,08% tổng số người chết;
- Liên quan đến thiết bị nâng,
thang máy chiếm 8,8% tổng số vụ và 9,55% tổng số người chết;
- Liên quan đến máy hàn điện chiếm
7,92% tổng số vụ và 8,53% tổng số người chết;
- Liên quan đến giàn giáo, sàn
thao tác chiếm 6,15% tổng số vụ và 7,18% tổng số người chết;
- Liên quan đến đường dây tải điện
chiếm 6,15% tổng số vụ và 6,66% tổng số người chết.
IV. Các yếu tố chấn thương chủ
yếu làm chết người nhiều nhất
- Điện giật chiếm 20,1% tổng số vụ
và 18,87% tổng số người chết;
- Ngã từ trên cao chiếm 16,4% tổng
số vụ và 15,07% tổng số người chết;
- Máy, thiết bị cán, kẹp, cuốn chiếm
14,1% tổng số vụ và 14,25% tổng số người chết;
- Vật đổ, đè chiếm 7,78% tổng số vụ
và 10,17 tổng số người chết, trong đó riêng lĩnh vực khai thác đá năm 2007 có 6
vụ sạt lở đá làm chết 23 người, đặc biệt nghiêm trọng là vụ khai thác đá tại
công trình xây dựng nhà máy Thuỷ điện Bản Vẽ làm chết 18 người.
V. Các nguyên nhân chủ yếu để xảy
ra tai nạn lao động chết người
Nguyên nhân do người sử dụng lao động
chiếm 35,53% tổng số vụ, do người lao động chiếm 30%, còn lại là do các yếu tố
khách quan hoặc không kết luận nguyên nhân cụ thể là 34,47% tổng số vụ tai nạn
lao động, cụ thể là:
- Người sử dụng lao động vi phạm
Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật, Quy phạm an toàn chiếm 17,62% tổng số vụ;
- Người sử dụng lao động không xây
dựng quy trình, biện pháp làm việc an toàn chiếm 11,89% tổng số vụ;
- Chưa huấn luyện an toàn lao động,
không có phương tiện bảo vệ cá nhân chiếm 4,72% tổng số vụ;
- Thiết bị không đảm bảo an toàn
lao động chiếm 1,7% tổng số vụ không có thiết bị an toàn chiếm 2,2% tổng số vụ;
- Người bị nạn vi phạm quy trình
quy phạm an toàn lao động chiếm 25,3% tổng số vụ;
- Người bị nạn vi phạm không sử dụng
phương tiện bảo vệ cá nhân chiếm 4,7% tổng số vụ.
VI. Xử lý trách nhiệm đối với vụ
tai nạn lao động
Trong tổng số 240 vụ tai nạn lao động
mà Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nhận được biên bản điều tra năm 2007
thì chỉ có 1 vụ được chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát để đề nghị truy cứu trách
nhiệm hình sự và khởi tố trách nhiệm hình sự các cá nhân có trách nhiệm liên
quan. Một số vụ tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng chết nhiều người trong
năm 2007 chưa điều tra xong nên chưa có hình thức xử lý.
C. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. So với năm 2006: Năm 2007 tăng
70 vụ tai nạn lao động và 249 người bị nạn. Số vụ tai nạn lao động chết người
không tăng nhưng số người chết tăng 85 người, đặc biệt là số người bị thương nặng
năm 2007 nhiều hơn năm 2006 là 1141 người.
2. Tình hình điều tra tai nạn lao
động
Nhìn chung các vụ tai nạn lao động
đã được điều tra đúng quy định tại Thông tư liên tịch số
14/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN ngày 08/3/2005 của Liên tịch Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội - Bộ Y tế - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tuy nhiên
nhiều địa phương còn chậm gửi biên bản điều tra về Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội. Trong năm 2007, một số địa phương đã tiến hành điều tra tai nạn lao động
và báo cáo về Bộ khẩn trương, kịp thời như: Quảng Ninh, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh.
Quảng Ninh là tỉnh duy nhất chấp hành nghiêm chỉnh chế độ báo cáo nhanh các vụ
tai nạn lao động chết người về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
3. Chất lượng báo cáo tai nạn lao
động năm 2007
Nhiều địa phương đã thực hiện tốt
việc báo cáo tình hình tai nạn lao động theo đúng mẫu và thời gian quy định tại
Thông tư liên tịch số 14/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN ngày 08/3/2005 của Liên
tịch Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Bộ Y tế - Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam. Tuy nhiên vẫn còn một số địa phương báo cáo không đúng mẫu, báo cáo số liệu
không khớp giữa các cột mục hoặc chỉ báo cáo tổng số mà không phân tích theo
các yếu tố theo biểu mẫu quy định. Đặc biệt tỷ lệ báo cáo của các doanh nghiệp
về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội địa phương vẫn rất thấp (năm 2007 toàn
quốc chỉ có 4,5% số doanh nghiệp báo cáo) do vậy đã gây khó khăn trong việc tổng
hợp, đánh giá tình hình tai nạn lao động toàn quốc. Các Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội địa phương gửi báo cáo về Bộ cũng rất chậm.
Để hạn chế tình trạng này trong
năm 2007, đề nghị Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các địa phương
kiên quyết xử phạt các doanh nghiệp không báo cáo định kỳ về tai nạn lao động
theo quy định tại Nghị định số 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính phủ.
4. Thiệt hại về vật chất
Theo số liệu báo cáo của các địa
phương, thiệt hại về vật chất do tai nạn lao động xảy ra trong năm 2007 (chi
phí tiền thuốc men, mai táng, tiền bồi thường cho gia đình người chết và những
người bị thương,...) là 48.035 tỷ đồng, thiệt hại về lâm sản là 10.493 tỷ đồng.
Tổng số ngày nghỉ do tai nạn lao động lên đến 382.313 ngày.
D. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẦN
THỰC HIỆN NĂM 2008
Căn cứ vào tình hình và nguyên
nhân xảy ra tai nạn lao động trong năm 2007, để chủ động phòng ngừa và hạn chế
tai nạn lao động trong thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề
nghị các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp thực hiện tốt các giải pháp
chủ yếu sau đây:
1. Tăng cường công tác thanh tra
việc thực hiện các quy định của Nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động ở tất cả
các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế. Cần tập trung thanh tra các lĩnh vực
xây dựng; lắp đặt, sửa chữa và sử dụng điện; khai thác khoáng sản và khai thác
đá; sử dụng các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động; các công
trình xây dựng trọng điểm sử dụng nhiều lao động thời vụ; các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với các hành vi vi
phạm luật pháp lao động theo quy định tại Nghị định số 113/2004/NĐ-CP ngày
16/4/2004 của Chính phủ;
2. Các Bộ, ngành, tập đoàn, tổng
công ty tăng cường kiểm tra và chỉ đạo các đơn vị thuộc quyền quản lý của mình
thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động và quy
định về bảo hộ lao động. Tổ chức huấn luyện về an toàn lao động cho người sử dụng
lao động theo quy định tại Thông tư số 37/2005/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2005 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội. Tổ chức hội nghị đánh giá đúng mức các nguyên
nhân gây ra tai nạn lao động để phổ biến rút kinh nghiệm trong toàn ngành, tập
đoàn, Tổng công ty, đồng thời đề ra các biện pháp cần thiết để ngăn chặn và đẩy
lùi tai nạn lao động. Kiểm điểm, xử lý nghiêm khắc các đơn vị, cá nhân để xảy
ra tai nạn lao động;
3. Người sử dụng lao động phải thường
xuyên kiểm tra máy, thiết bị; cải thiện điều kiện làm việc để đảm bảo cho người
lao động được làm việc trong môi trường an toàn. Xây dựng đầy đủ các quy trình,
biện pháp làm việc an toàn, vệ sinh lao động theo hướng dẫn tại các Tiêu chuẩn,
Quy chuẩn kỹ thuật, Quy phạm an toàn và hướng dẫn cho người lao động trước khi
làm việc. Tổ chức huấn luyện về an toàn, vệ sinh lao động đầy đủ cho người lao
động theo quy định tại Thông tư số 37/2005/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2005 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội và tuyên truyền, giáo dục cho người lao động tự
giác chấp hành các quy định về an toàn, vệ sinh lao động. Đặc biệt chú ý đối với
những người lao động làm các công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại hoặc tiếp
xúc với những đối tượng có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao
động;
4. Chấn chỉnh công tác thống kê,
báo cáo tai nạn lao động toàn quốc: Tăng cường thanh tra, kiểm tra chuyên đề về
công tác thống kê, báo cáo cũng như kiên quyết áp dụng các chế tài đối với cơ sở
không chấp hành nghiêm túc chế độ báo cáo về tai nạn lao động;
5. Phối hợp với các cơ quan có thẩm
quyền để tiến hành điều tra kịp thời, chính xác các vụ tai nạn lao động chết
người trong các thành phần kinh tế, chú ý các doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy
trình sản xuất lạc hậu; sử dụng các hoá chất độc hại, ảnh hưởng môi trường
nhưng thiếu ý thức phòng ngừa tai nạn lao động;
6. Xử lý nghiêm những cá nhân thiếu
tinh thần trách nhiệm, vi phạm các quy định về an toàn, vệ sinh lao động và
kiên quyết đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự các cá nhân có trách nhiệm liên
quan nếu có những vi phạm pháp luật lao động để xảy ra tai nạn lao động chết
người nghiêm trọng;
7. Tăng cường công tác tuyên truyền
pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động nhằm nâng cao trách nhiệm đối với các
đơn vị, cơ sở sản xuất kinh doanh và người lao động để mọi người đều có ý thức
cảnh giác và phòng ngừa tai nạn lao động./.