BỘ GIAO THÔNG VẬN
TẢI
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 5220/BGTVT-VT
V/v: Trả lời các kiến nghị của cộng đồng
doanh nghiệp tại Công văn số 877/PTM-VP ngày 23/4/2014 của Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam.
|
Hà Nội, ngày 09
tháng 05 năm 2014
|
Kính gửi:
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Ngày 25/4/2014, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải nhận
được Công văn số 877/PTM-VP ngày 23/4/2014 của Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam về việc báo cáo tình hình và kiến nghị của doanh nghiệp, Bộ Giao thông
vận tải xin trả lời các kiến nghị của doanh nghiệp cụ thể như sau:
1. Các kiến nghị và đề xuất về lập trạm cân kiểm
tra tải trọng xe
1.1. "Đề nghị nhà nước cần hoàn thiện hệ thống
hóa văn bản quy phạm pháp luật quy định tải trọng phương tiện, cầu đường và xử
lý"
- Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã ban hành 03
Quyết định phê duyệt Đề án, kế hoạch và các quy định liên quan đến vận hành hệ
thống kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ1 làm cơ sở để triển khai đầu tư trang thiết bị, cấp
phát và tập huấn cho lực lượng chức năng các địa phương; ban hành 03 Thông tư về
tổ chức, quản lý, quy định trách nhiệm và xử lý vi phạm trong hoạt động kinh
doanh vận tải bằng xe ô tô; trình Chính phủ ban hành Nghị định 171/2013/NĐ-CP về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
Ngoài ra, Bộ đã có 05 văn bản đề nghị Bộ Công an, Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường chỉ đạo
quyết liệt các cơ quan chức năng của địa phương trong việc thực hiện đồng bộ
các giải pháp kiểm soát tải trọng xe cơ giới đường bộ; có văn bản gửi các cảng
biển, cảng thủy nội địa, các ga đường sắt, các Ban quản lý dự án, các Tổng công
ty vận tải trực thuộc Bộ và một số doanh nghiệp vận tải lớn ngoài ngành để
tuyên truyền và yêu cầu chấp hành nghiêm quy định của pháp luật về xếp hàng hóa
trên xe ô tô và chở hàng đúng trọng tải quy định. Thanh tra Bộ có các văn bản
chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ cho lực lượng Thanh tra ngành GTVT trong đó chú
trọng tập huấn về quy trình khai thác, sử dụng trạm cân lưu động.
- Bộ trưởng Bộ Công an đã có Chỉ thị và Công điện
chỉ đạo các đơn vị trực thuộc của Bộ, Công an các tỉnh, thành phố về việc chỉ đạo
không can thiệp trong xử lý các trường hợp thân nhân, bạn bè vi phạm hành chính
dưới mọi hình thức. Yêu cầu Cảnh sát giao thông tăng cường tuần lưu, không lập
chốt cố định, đồng thời triển khai nhiều Đoàn công tác kiểm tra, đôn đốc thực
hiện bảo đảm trật tự an toàn xã hội và việc chấp hành điều lệnh trong cán bộ,
chiến sỹ Cảnh sát giao thông.
- Ủy ban nhân dân, Ban an toàn giao thông các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đã có văn bản chỉ đạo triển khai kế hoạch
500/KH-UBATGTQG thực hiện chủ đề năm ATGT 2014 "Siết chặt kinh doanh vận tải
và Kiểm soát tải trọng phương tiện"; ban hành kế hoạch KSTT xe, thành lập
Trạm KTTT xe, quyết định điều động lực lượng thực hiện nhiệm vụ tại Trạm KTTT
xe …, 54 địa phương đã ký Quy chế phối hợp KTTT xe tại Trạm KTTT xe lưu động với
Bộ GTVT.
Hiện tại, Bộ Giao thông vận tải đang tiếp tục rà
soát hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động
kinh doanh vận tải hàng hóa bằng xe ô tô, hoạt động kiểm định chất lượng an
toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới nhằm ngăn chặn có hiệu quả tình
trạng xe chở hàng vượt quá tải trọng cho phép; đồng thời chủ trì phối hợp với
Bộ Công an ban hành Thông tư liên tịch Quy định việc phối hợp thực hiện các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông đường bộ và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
1.2. "Do đặc thù hàng hóa xuất nhập khẩu từ
nước ngoài về đóng trong công-ten-nơ nhất là thiết bị máy móc nên tải trọng
phân bố không đều, hơn nữa, hệ thống cầu
đường bộ Việt Nam hiện nay chưa được đồng bộ dẫn đến trong quá trình vận chuyển
hàng hóa bằng đường biển và đường bộ nhất là hàng rời, hàng bao trong các
công-ten-nơ có thể bị xô lệch nên trọng tải phân bố trên các trục không đều. Đề
nghị không cân đầu trục mà chỉ xử lý quá tải trọng toàn bộ xe"
Ngày 29/4/2014, Bộ Giao thông vận tải đã có Công
văn số 4875/BGTVT-VT báo cáo tình hình triển
khai kiểm soát tải trọng phương tiện trên đường bộ theo chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ và 24 ngày triển khai kiểm
soát tải trọng phương tiện trên toàn quốc (từ ngày 01/4/2014 đến ngày
24/4/2014) trong đó kiến nghị Chính phủ cho phép tạm thời chưa xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định tại Nghị định số 171/2013/NĐ-CP trong thời gian đến
31/12/2014 đối với hai trường hợp sau:
Thứ nhất: Xe ô tô vi phạm tải trọng trục mà
không vi phạm tổng trọng lượng được phép tham gia giao thông của xe. Những xe
vi phạm trường hợp này, các lực lượng chức năng yêu cầu xếp lại hàng hóa đảm bảo phân bố tải trọng hợp lý theo
các trục, sau đó cho xe tiếp tục lưu hành, không xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ hai: Tổng trọng lượng của xe ô tô hoặc
đoàn xe ô tô (bao gồm đầu kéo kéo theo sơ mi rơ moóc) cân được mà vượt quá dưới
10% tổng trọng lượng cho phép tham gia giao thông của xe ô tô hoặc đoàn xe ô tô
theo quy định.
Nếu được Chính phủ chấp thuận Bộ Giao thông vận tải
sẽ khẩn trương ra văn bản hướng dẫn để tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị kinh
doanh vận tải.
1.3. "Đối với hàng tạm nhập tái xuất chỉ mượn
đường Việt Nam để xuất sang nước thứ 3 đề nghị không hạ tải"
"Đối với hàng tạm nhập tái xuất chỉ mượn đường
Việt Nam để xuất sang nước thứ 3 đề nghị không hạ tải", việc quy định
về thủ tục thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, việc sử dụng phương tiện
tham gia giao thông nếu chở quá tải thì vẫn bị xử lý theo quy định của pháp luật
hiện hành.
1.4. "Đề nghị Bộ Giao thông vận tải công bố
tải trọng hàng hóa đóng trong công-ten-nơ được phép lưu hành trên lãnh thổ Việt
Nam và chỉ đạo các đơn vị cảng biển, các công ty xuất nhập khẩu, các đơn vị bốc
xếp, các cụm công nghiệp, các kho hàng, chủ hàng không nhập, xuất các
công-ten-nơ có trọng tải quá quy định"
Việc quy định tải trọng hàng hóa đóng trong
công-ten-nơ được phép lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam đã được quy định tại Điều 8 Thông tư số 35/2013/TT-BGTVT ngày 21/10/2013 của Bộ trưởng
Bộ Giao thông vận tải về việc thực hiện xếp hàng hóa trên xe ô tô khi tham gia
giao thông trên đường bộ. Cụ thể:
+ Xếp hàng vào công-ten-nơ: Phải lựa chọn
công-ten-nơ phù hợp với loại hàng hóa và
đặc tính của hàng hóa để xếp hàng; phải chèn, lót để hàng hóa trong công-ten-nơ
không bị xê dịch trong quá trình vận chuyển; khối lượng sử dụng lớn nhất của
công-ten-nơ và hàng hóa trong đó thực hiện theo quy định tại tiêu chuẩn ISO 668
về phân loại, kích thước và khối lượng danh định.
+ Khi vận chuyển công-ten-nơ phải sử dụng tổ hợp xe
đầu kéo với sơ mi rơ moóc hoặc xe ô tô tải vận chuyển công-ten-nơ phù hợp với loại công-ten-nơ.
+ Sử dụng các thiết bị để định vị công-ten-nơ với
xe, đảm bảo công-ten-nơ không bị xê dịch trong quá trình vận chuyển.
1.5. "Đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét
điều chỉnh tải trọng cho phép tham gia giao thông của các sơ mi rơ moóc sao cho
phù hợp để đảm bảo vận chuyển được hàng hóa đóng trong công-ten-nơ theo tiêu
chuẩn quốc tế. Trước mắt để tránh hàng loạt các xe không hoạt động được dẫn đến
hàng hóa ứ đọng đề nghị Bộ Giao thông vận tải có thể tạm thời quy định tải trọng
cho phép tham gia giao thông của sơ mi rơ moóc bằng tải trọng thiết kế nhưng tổng
trọng tải xe được phép tham gia giao thông không vượt 10% tải trọng giới hạn cầu
đường cho phép và cho phép các sơ mi rơ moóc có niên hạn sử dụng trên 20 năm được
cải tạo nâng cấp để được kiểm định 6 tháng 1 lần"
- Đối với nội dung: "tạm thời quy định tải
trọng cho phép tham gia giao thông của sơ mi rơ moóc bằng tải trọng thiết kế
nhưng tổng trọng tải xe được phép tham
gia giao thông không vượt 10% tải trọng giới hạn cầu đường cho phép"
Bộ Giao thông vận tải đang yêu cầu Cục Đăng kiểm Việt
Nam thực hiện rà soát lại toàn bộ hồ sơ đăng kiểm của các đầu kéo và sơ mi rơ
moóc, xác định và thống kê toàn bộ các trường hợp
cùng một loại phương tiện (đầu kéo hoặc sơ mi rơ moóc) nhưng cơ quan đăng kiểm
lại xác nhận giá trị Trọng lượng toàn bộ cho phép tham gia giao thông
khác nhau trong Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; thẩm
tra, thống nhất giá trị trọng lượng toàn bộ cho phép tham gia giao thông theo
quy định tại Thông tư số 06/VBHN-BGTVT ngày 07/2/2014 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải; cấp lại Giấy chứng nhận an
toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường cho những phương tiện có giá trị Trọng lượng
toàn bộ cho phép tham gia giao thông ghi trong Giấy chứng nhận an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường chưa phù hợp
và thống nhất về Trọng lượng toàn bộ cho phép tham gia giao thông theo
quy định tại Thông tư số 06/VBHN-BGTVT; thực hiện xong trước ngày 20/05/2014,
thông báo công khai hướng dẫn này trên trang thông tin điện tử của Bộ Giao
thông vận tải, Cục Đăng kiểm Việt Nam và Báo Giao thông.
- Đối với nội dung: "cho phép các sơ mi rơ
moóc có niên hạn sử dụng trên 20 năm được cải tạo nâng cấp để được kiểm định 6 tháng 1 lần"
Nội dung này, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Vụ
Khoa học công nghệ thuộc Bộ rà soát và Bộ sẽ báo cáo Chính phủ về việc chấm dứt
việc cho phép hoán cải phương tiện và đề xuất
lộ trình, giải pháp để sớm chấm dứt triệt để các phương tiện đã hoán cải.
1.6. "Đề nghị lãnh đạo các bộ, ngành chỉ đạo
các đoàn kiểm tra liên ngành tiến hành việc kiểm soát tải trọng xe và xử lý xe
quá tải cần làm thường xuyên, liên tục, kiên quyết, để hạn chế đi tới chấm dứt
tình trạng việc chở quá tải đối với tất cả các phương tiện vận tải đường bộ xếp
hàng từ các kho hàng trong khu công nghiệp, các cảng biển nhằm: một là hạn chế
sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các đơn vị vận tải đường bộ, nếu không sẽ xảy
ra hiện tượng có đơn vị thực hiện nghiêm túc thì mất khách hàng còn đơn vị thực
hiện không đúng quy định lại chiếm được
khách hàng mặc dù phương tiện vận tải của họ vẫn chở quá tải theo quy định; hai
là chấm dứt tình trạng cảng xếp hàng lên phương tiện vận tải theo quy định thì
tàu biển không cập cảng xếp dỡ mà lại di chuyển tới cảng xếp dỡ hàng lên phương
tiện vận tải đường bộ vượt quá các quy định về việc xếp hàng quá tải trọng cho
phép"
- Từ ngày 01/4/2014, các cơ quan chức năng của Bộ
Giao thông vận tải, Bộ Công an và Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên toàn quốc đã đồng loạt
triển khai kiểm soát tải trọng xe ô tô. Sau 15 ngày ra quân đồng loạt kiểm soát
tải trọng xe, ngày 17/4/2014, Bộ Giao thông vận tải cùng Bộ Công an và Ủy ban
An toàn giao thông Quốc gia tổ chức họp với
đại diện một số Bộ ngành, Công an và Sở Giao thông vận tải 17 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương đánh giá sơ bộ những kết quả ban đầu trong công tác kiểm
soát tải trọng xe, kết quả cho thấy:
- Đã có 52/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(82,5%) thực hiện kiểm tra tải trọng xe theo kế hoạch liên ngành số
12593/KHLN-BGTVT-BCA. Lãnh đạo một số địa phương đã quan tâm, quyết liệt chỉ đạo;
hai ngành Giao thông vận tải và Công an một số địa phương đã khắc phục khó
khăn, phối hợp chặt chẽ trong việc chuẩn bị như hoàn thiện các thủ tục pháp lý,
bố trí kinh phí, cơ sở vật chất, lực lượng phối hợp... để thực hiện có hiệu quả
công tác kiểm soát tải trọng xe.
- Đã kiểm tra trên hệ thống trạm kiểm soát tải trọng
xe lưu động là 10.979 xe, trong đó có 2.132 xe (bằng 19,4%) vi phạm, cho thấy
trên 80% số xe chở hàng không vượt quá tải, đây là kết quả tích cực, đáng khích
lệ đối với những địa phương thực hiện tốt công tác kiểm soát tải trọng xe.
- Công tác tuyên truyền, vận động thực hiện có hiệu
quả, tạo dư luận xã hội, đa số nhân dân đồng tình, ủng hộ chủ trương và những
nhiệm vụ trong Kế hoạch liên ngành.
- Hầu hết các đơn vị kinh doanh vận tải đồng thuận
và cam kết thực hiện song cũng đề nghị phải làm thường xuyên liên tục và đảm bảo
sự công bằng, giữ được môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh.
- Hội nghị cũng thống nhất tiếp tục tăng cường thực
hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Kế hoạch liên ngành giữa Bộ Công an và Bộ Giao
thông vận tải, bảo đảm duy trì hoạt động của các Trạm kiểm tra tải trọng xe lưu động liên tục 24h trong ngày và 7 ngày
trong tuần.
- Đối với những tỉnh còn lại (11/63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương) chưa thực hiện kiểm tra tải trọng xe theo kế hoạch liên
ngành số 12593/KHLN-BGTVT-BCA do một số lý do khác nhau Bộ Giao thông vận tải
đã có văn bản số 3703/BGTVT-VT ngày 04/4/2014 đề nghị các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ quan chức năng triển khai thực hiện công tác kiểm
soát tải trọng xe theo kế hoạch liên ngành số 12593/KHLN-BGTVT-BCA.
- Ngày 16/4/2014, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản
số 478/TTg-KTN về việc tăng cường thực hiện các giải pháp siết chặt kiểm soát tải
trọng phương tiện vận tải đường bộ trong đó chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường
chỉ đạo Công an tỉnh và Sở Giao thông vận tải tiếp tục phối hợp, đồng thời xác
định công tác kiểm soát tải trọng phương tiện vận tải đường bộ là nhiệm vụ thường
xuyên, liên tục; duy trì hoạt động của trạm kiểm soát tải trọng xe 24h trong
ngày và 7 ngày trong tuần; ưu tiên sử dụng kinh phí từ Quỹ bảo trì đường bộ địa
phương và kinh phí từ xử phạt vi phạm hành chính trong giao thông đường bộ để bảo
đảm cho hoạt động thường xuyên của trạm kiểm soát tải trọng phương tiện vận tải
đường bộ; tổ chức đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực kiểm tra trọng tải xe;
yêu cầu các đơn vị khai thác khoáng sản, kinh doanh kho, bãi, cảng, sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp… trên địa bàn thực hiện xếp hàng hóa lên xe ô tô đúng
quy định về tải trọng; phải có biện pháp để kiên quyết chấm dứt tình trạng bao
che, dung túng cho các hành vi vi phạm chở hàng quá tải, thách thức dư luận xã
hội; xác định rõ trách nhiệm của tổ chức,
cá nhân nếu để xảy ra tình trạng phương tiện vi phạm chở hàng quá trọng tải lưu
thông trên đường bộ thuộc địa bàn.
2. Những vấn đề nổi cộm hiện nay sau khi tiến
hành kiểm soát tải trọng phương tiện đồng loạt trên toàn quốc
2.1. "Phần lớn các xe tải đều có tải trọng
quá tải so với đăng kiểm vì thực tế mức tải trọng cho phép hiện nay thấp so với
tình hình tải trọng thực tế xe tải có thể chở được, như có xe tải đăng kiểm chỉ
cho phép chở được 7 tấn nhưng thực tế có
thể chở được tới 20 tấn"
Việc thực hiện quy định và cấp trọng lượng toàn bộ
cho phép tham gia giao thông, trọng tải cho phép tham gia giao thông của xe cơ giới được lập trong các thời kỳ khác
nhau như sau: từ trước 1995 căn cứ theo cơ quan Cảnh sát giao thông; đến ngày
01/1/2002 được cấp theo Quyết định 4597/2001/QĐ-BGTVT ngày 28/12/2001 của Bộ
Giao thông vận tải; hiện nay căn cứ theo quy định tại Thông tư số 06/VBHN-BGTVT
ngày 07/2/2014 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
Do vậy, có thể nói đây là nguyên nhân xảy ra tình
trạng một xe cùng nhãn hiệu, số loại nhưng có trọng tải khác nhau. Ngoài ra đối
với xe nhập khẩu có cùng số loại, nhãn hiệu nhưng lại có thông số kỹ thuật khác
nhau về trọng lượng bản thân, kết cấu cũng là nguyên nhân dẫn đến trọng tải do
nhà sản xuất phải quy định khác nhau.
Một số trường hợp
xe cơ giới có trọng lượng toàn bộ thiết kế, trọng tải thiết kế của xe thấp hơn
mức quy định tại Thông tư số Q6/VBHN-BGTVT nhưng chủ xe, lái xe không hiểu rõ
nên đã gửi văn bản về Cục Đăng kiểm Việt Nam đề nghị nâng trọng lượng toàn bộ
thiết kế, trọng tải thiết kế của xe cơ giới
lên bằng mức giới hạn quy định tại Thông tư số 06/VBHN-BGTVT.
Bộ Giao thông vận tải xin được làm rõ hơn vấn đề
nêu trên như sau:
- Trong thời gian vừa qua các Trung tâm đăng kiểm
đã từ chối kiểm định đối với xe tải do tự
ý cơi nới thùng chở hàng là 1.445 xe; số lượng xe tải đã sửa chữa phục hồi
nguyên trạng thùng chở hàng vào kiểm định lại là 3.293 xe.
- Cục Đăng kiểm Việt Nam đã tiến hành kiểm tra và cấp Thông báo không đạt chất lượng
an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới nhập khẩu đối với 21 xe của 06
doanh nghiệp nhập khẩu do không thỏa mãn quy định của Thông tư số
32/2012/TT-BGTVT; từ chối kiểm tra và yêu cầu 02 doanh nghiệp nhập khẩu, tái xuất
02 lô hàng là ô tô tải tự đổ, chưa qua sử dụng
được nhập khẩu từ Trung Quốc vì có dấu hiệu vi phạm quy định của Thông tư số 32/2012/TT-BGTVT về thể tích
thùng chở hàng; phát hiện và chấn chỉnh 16 doanh nghiệp nhập khẩu các xe có cơ
cấu chờ để lắp phần cơi nới thùng hàng khi đưa ra sử dụng.
Có thể đánh giá, qua kiểm tra thực tế còn nhiều đơn
vị sản xuất lắp ráp trong nước và nhập khẩu ô tô cũng như rất nhiều chủ phương
tiện tự ý hoán cải, cải tạo phương tiện
như: táp sát xi, cơi nới thùng hàng, độn thêm nhíp... nhằm mục đích có thể chở
được nhiều hàng hơn, điều đó dẫn đến tình trạng nhiều xe có thể chở được trọng
tải cao hơn nhiều lần so với trọng tải cho phép tham gia giao thông ghi trong
Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.
Vấn đề này, Bộ Giao thông vận tải đề nghị Hiệp hội
và các đơn vị sản xuất lắp ráp trong nước, các đơn vị nhập khẩu, các chủ phương
tiện nghiêm túc chấp hành theo đúng quy định. Đồng thời, trong tháng 5/2014, Bộ
Giao thông vận tải cũng sẽ chính thức báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc chấm
dứt việc cho phép hoán cải phương tiện và đề xuất lộ trình, giải pháp để sớm chấm
dứt triệt để các phương tiện đã hoán cải.
2.2. "Vì mức hạn đăng kiểm thấp nên phần lớn
xe tải hiện nay đều chở hàng quá tải trọng đăng kiểm cho phép nên đã phát sinh
ra vấn đề tiêu cực trong xử lý vi phạm: nếu có quan hệ tốt với bộ phận kiểm tra
thì xe được đi qua, nếu không thì ngược lại"
Bộ Giao thông vận tải đang chỉ đạo triển khai để
nâng cao chất lượng và chống tiêu cực trong kiểm soát tải trọng phương tiện. Cụ
thể: Bộ Giao thông vận tải đã có các công văn: số 4746/BGTVT-VT ngày 26/4/2014
gửi các bộ, ngành, địa phương để tiếp tục triển khai quyết liệt và hiệu quả
công tác kiểm soát tải trọng phương tiện cũng như công tác phối hợp trong tuần tra, kiểm soát xử lý vi phạm
và thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông giữa các Bộ,
ngành, địa phương trong thời gian tới; số 4470/BGTVT-VT ngày 28/4/2014 gửi các
cơ quan liên quan thuộc Bộ để tiếp tục triển khai quyết liệt và hiệu quả công
tác kiểm soát tải trọng phương tiện; đồng thời Bộ Giao thông vận tải đã thành lập
Đoàn kiểm tra liên ngành gồm đại diện: Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Ủy ban An toàn giao thông quốc gia tiến hành kiểm
tra việc triển khai thực hiện nhiệm vụ trong kiểm soát tải trọng phương tiện
(thực hiện từ 07/5/2014 đến hết năm 2014).
2.3. "Vì đăng kiểm cho phép hạn mức tải trọng
thấp so với thực tế xe có thể chở được. Nếu làm đúng quy định, sẽ gây ra những
vấn đề: xe phải chở hàng nhiều lần gây ra lưu lượng giao thông tăng, dẫn đến
ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường và giá thành vận chuyển tăng nên kéo
theo giá thành sản phẩm đến người tiêu dùng tăng,…"
- Thứ nhất việc "đăng kiểm cho phép hạn mức
tải trọng thấp so với thực tế xe có thể chở được"
Cơ quan đăng kiểm căn cứ trên các quy định pháp lý
để quy định tổng tải trọng của phương tiện
được phép tham gia giao thông (Trọng lượng toàn bộ cho phép tham gia giao
thông theo quy định tại Thông tư số 06/VBHN-BGTVT ngày 07/2/2014 của Bộ trưởng
Bộ Giao thông vận tải quy định về tải trọng, khổ giới hạn của đường bộ; công bố
tải trọng, khổ giới hạn của quốc lộ).
Dự kiến trong tháng 5 và tháng 6 năm 2014, Bộ Giao
thông vận tải sẽ thực hiện rà soát, đánh giá lại tình hình kết cấu hạ tầng đường bộ trong cả nước để có căn cứ nâng cao trọng
lượng toàn bộ cho phép tham gia giao thông của phương tiện cơ giới đường bộ.
- Thứ hai "Nếu làm đúng quy định, sẽ gây ra
những vấn đề: xe phải chở hàng nhiều lần gây ra lưu lượng giao thông tăng, dẫn
đến ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường và giá thành vận chuyển tăng nên kéo
theo giá thành sản phẩm đến người tiêu dùng tăng…"
Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ
Việt Nam, các Cục: Đường thủy nội địa Việt
Nam, Đường sắt Việt Nam, Hàng hải Việt Nam, Hàng không Việt Nam và các đơn vị
kinh doanh vận tải khối lượng lớn tăng cường thực hiện các giải pháp đồng bộ, kịp
thời để tăng cường kết nối, nâng cao năng lực và hiệu quả của các phương thức vận
tải để giảm áp lực cho vận tải đường bộ và tăng cường năng lực vận tải cho đường
sắt, đường thủy nội địa, đường biển, thiết lập lại thị trường vận tải bình đẳng
và có cơ cấu thị phần hợp lý giữa các phương thức.
Qua báo cáo của các địa phương gửi về Bộ Giao thông
vận tải thì có hiện tượng các xe đỗ hàng dài để tránh trạm kiểm tra, chờ giờ để
đi nên gây cản trở giao thông hoặc gây ùn tắc giao thông. Tại Công văn số
478/TTg-KTN ngày 16/4/2014, Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo các Bộ, ngành,
địa phương, các tổ chức xã hội cùng vào cuộc quyết liệt duy trì thực hiện thường
xuyên liên tục trên địa bàn cả nước để đưa hoạt động vận tải hàng hóa dần đi vào nề nếp. Bộ cũng đã thường
xuyên phối hợp các hiệp hội ngành nghề để
tập trung tháo gỡ ngay một số khó khăn cho doanh nghiệp vận tải và chủ phương
tiện khi triển khai kiểm soát tải trọng
phương tiện; đồng thời Bộ cũng đã có văn bản đề nghị các địa phương vào cuộc và
chỉ đạo quyết liệt để việc kiểm soát tải trọng phương tiện đạt kết quả cao.
3. Trong việc áp dụng Thông tư 03/2011/TT-BGTVT,
đề nghị xem xét đến các tác động đối với ngành thủy sản, xuất nhập khẩu, qua
đó: có biện pháp đặc thù để không đưa hàng xuất, nhập khẩu bằng công-ten-nơ vào
kiểm soát tải trọng phương tiện nhằm đảm bảo lưu thông bình thường cho hàng hóa
xuất, nhập khẩu, nhất là hàng thủy sản đông lạnh và đóng hộp
Bộ Giao thông vận tải đã tiếp và làm việc với đại
diện Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam để giải quyết các khó
khăn và tháo gỡ cho doanh nghiệp. Hiện tại, các doanh nghiệp vận chuyển hàng thủy
sản đã ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng công-ten-nơ với một số đối tác nước
ngoài và giá trị hợp đồng hết năm 2014, trong đó có nội dung đóng hàng cho một
công-ten-nơ 40fit là 27 đến 28 tấn hàng (cả vỏ công-ten-nơ và hàng là 32,48 tấn)
nếu so với quy định tại Thông tư số 35/2013/TT-BGTVT thì bị vượt 2 tấn; đồng thời
các mặt hàng thủy sản phải giữ đông ở nhiệt độ thấp nên không thể tháo dỡ tùy
tiện vì khi tháo dỡ bị chênh lệch nhiệt độ sẽ làm hàng bị chảy nước ảnh hưởng
chất lượng không xuất khẩu được.
Do vậy, Hiệp hội đề nghị tạo điều kiện và xin đặc
thù riêng đối với loại hàng hóa này được chở vượt tải 10% so với quy định hiện
tại.
(vấn đề này đã trả lời cụ thể tại mục 1.2)
4. Tăng lệ phí xe: Chính phủ nên đưa ra các giải
pháp bền vững hơn như sự phát triển của các phương tiện giao thông công cộng,
cơ sở hạ tầng đường bộ tại các thành phố lớn cũng như nâng cao nhận thức và
tuân thủ giao thông của người tham gia
giao thông sẽ giải quyết tích cực và hiệu quả nạn ùn tắc giao thông thay vì
tăng lệ phí xe
Có nhiều giải pháp bao gồm cả trước mắt và lâu dài
để giải quyết tích cực và hiệu quả nạn ùn tắc giao thông, trong đó lệ phí xe là
một giải pháp trước mắt. Định hướng chính là không ngăn cản quyền sở hữu ôtô của
người dân bằng phí sử dụng phương tiện cá nhân hay bất cứ loại phí áp dụng cho
đa số. Giải pháp kiểm soát luồng lưu thông của phương tiện qua việc thu phí hoạt
động, tiền trông giữ xe từng khu vực, thời điểm trong nội đô.
Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 2 Quốc
hội khóa XIII về các giải pháp nhằm khắc phục ùn tắc giao thông và đã được Quốc
hội có Nghị quyết thông qua. Hiện nay, Bộ GTVT và các Bộ, ngành, địa phương
đang khẩn trương, quyết liệt thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để hạn chế ùn tắc
giao thông. Kết quả bước đầu đã cho thấy những chuyển biến tích cực đối với giao thông tại các đô thị.
Nhằm bảo đảm sự ổn định, lâu dài và xây dựng giao
thông đô thị bền vững, vừa qua Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển dịch
vụ vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 318/QĐ-TTg ngày
4/3/2014); chỉ đạo UBND các thành phố lớn,
các Bộ, ngành thực hiện các giải pháp phát triển hợp lý các phương thức vận tải
tại các thành phố lớn (Văn bản số 148/TTg-KTN ngày 27/01/2014), phê duyệt Đề án
phát triển VTHKCC bằng xe buýt giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020 (Quyết định số
280/QĐ-TTg ngày 8/3/2012). Trong đó, tập trung thực hiện các giải pháp mang
tính bền vững:
- Phát triển hợp lý vận tải hành khách công cộng tại
các đô thị lớn, nhanh chóng hoàn thiện mạng lưới vận tải HKCC bằng xe buýt và
xe buýt nhanh (BRT) tại các đô thị từ loại II trở lên;
- Đẩy nhanh tiến độ đầu tư cung ứng dịch vụ vận tải
hành khách khối lượng lớn như đường sắt đô thị, xe buýt nhanh trên các trục
giao thông chính và vành đai giao thông trung tâm của các đô thị đặc biệt;
- Phát triển hợp lý dịch vụ gom khách tại các khu vực
xe buýt không thể tiếp cận đồng thời nâng cao chất lượng và an toàn giao thông
của dịch vụ taxi nhằm mở rộng tối đa vùng và đối tượng phục vụ của hành khách
công cộng;
- Quy hoạch và xây dựng mạng lưới các cơ sở hậu cần
phục vụ vận tải hàng hóa nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vận tải hàng hóa trong
đô thị;
- Triển khai Đề án hoàn thiện mô hình tổ chức quản
lý vận tải công cộng địa phương để thống nhất điều tiết giữa các phương thức vận
tải, xây dựng các Trung tâm quản lý và điều hành giao thông đô thị theo hướng đồng
bộ, hiện đại.
- UBND các tỉnh, thành phố xây dựng, phê duyệt và
triển khai đề án tăng cường vận tải công cộng kết
hợp với kiểm soát phương tiện cơ giới cá nhân tham gia giao thông trên địa bàn.
5. Xe ô tô chở khách và xe thương mại
Sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô Việt
Nam bị ảnh hưởng bởi: Sự thay đổi liên tục về mặt cơ chế chính sách trong các
năm gần đây; Sự thiếu nhất quán và không minh bạch của các chính sách phục vụ
cho sự phát triển tổng thể ngành. Ảnh hưởng của Hiệp định tự do ASEAN có hiệu lực
hoàn toàn vào năm 2018 đến các doanh nghiệp CKD (sản xuất lắp ráp ô tô)/CBU (nhập
khẩu nguyên chiếc; Sự chậm trễ của quy hoạch tổng thể phát triển ngành công
nghiệp ô tô - tầm nhìn 2030
Khuyến nghị:
5.1. Một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy
tăng trưởng là ổn định. Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị Quy hoạch tổng thể nên
xem xét việc tuân thủ các quy định hiện tại và tương lai (các hiệp định đa
phương/khu vực/ song phương như WTO, Hiệp định thương mại tự do, Hiệp định
thương mại tự do song phương Hoa Kỳ - Việt Nam, TPP...). Việc tuân thủ các hiệp
định này sẽ giúp ổn định chính sách và thúc đẩy phát triển của ngành.
Bộ GTVT đề nghị Chính phủ chỉ đạo xem xét việc tuân
thủ các quy định hiện tại và tương lai (các hiệp định đa phương/khu vực/ song
phương như WTO, Hiệp định thương mại tự do, Hiệp định thương mại tự do song
phương Hoa Kỳ - Việt Nam, TPP...) trong Dự thảo "Quy hoạch phát triển công
nghiệp ô tô ở Việt Nam định hướng đến năm 2020 - tầm nhìn 2030".
5.2. Sự hiện diện của rất nhiều công ty quốc tế
và địa phương trong ngành thể hiện sự thành công của Chính phủ trong việc tạo ra
một môi trường cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực công nghiệp ô tô. Để có một
sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp và hỗ trợ nguyên tắc bình đẳng
thương mại cho mọi nhà sản xuất thiết bị gốc (OEMs) tại Việt Nam, kính đề nghị
quy định mọi chính sách, quy chế mới chỉ được coi là đủ điều kiện áp dụng sau
khi đã giành ra một khoảng thời gian đủ để doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động
theo quy định, chính sách mới. Đây cũng là phương châm công bằng trong thực hiện
chính sách"
Thời gian qua, đồng bộ với việc thực hiện cải cách
thủ tục hành chính, Chính phủ đã chỉ đạo sát sao về tính phù hợp, khả thi khi
thực hiện các cơ chế, chính sách.
Vấn đề lộ trình thực hiện các chính sách, quy chế mới
sẽ được Chính phủ chỉ đạo trong quá trình ban hành cơ chế, chính sách để bảo đảm
phù hợp nhất khi triển khai áp dụng thực hiện.
5.3. Việt Nam là một thành viên khối ASEAN; vì vậy,
cần thiết phải có một kế hoạch để tăng tốc và thúc đẩy hội nhập của Việt Nam có
thể đóng một vai trò lớn hơn trong sự phát triển
của công nghiệp ô tô của vùng. Không nên nhìn nhận việc hội nhập vào năm 2018 đối
với xe ô tô chở khách là một mối đe dọa cho ngành. Thay vào đó, các chương
trình hành động cụ thể nên được đưa ra để phát triển tổng thể ngành và nâng cao
năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên mọi khía cạnh trong ASEAN - Ví dụ như đưa
ra các ưu đãi cho nhà sản xuất.
Dự thảo "Quy hoạch phát triển công nghiệp ô-tô
ở Việt Nam - Định hướng đến năm 2020 - tầm nhìn 2030" có xác định bên cạnh
việc tiếp tục có những ưu đãi cho các nhà sản xuất
thì còn tập trung vào các chính sách nhằm kích cầu thị trường, từ đó giúp nhà sản
xuất có điều kiện để phát triển công nghiệp
hỗ trợ, xác định rõ đối tác chiến lược trong việc phát triển công nghiệp ô-tô
và công nghiệp hỗ trợ nhằm phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tham gia
vào chuỗi giá trị.
5.4. Phát triển trung tâm cung ứng nội địa là
đòi hỏi quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng, năng lực cạnh tranh chung của
ngành ô tô. Do quy mô chung của ngành (~ 100.000 đơn vị) và năng lực cung ứng nội
địa hạn chế hiện nay, kính đề nghị Chính phủ xác định mốc thời gian hợp lý thực
tế có tính đến: a) quy định về chất lượng và b) việc hội nhập ASEAN.
Nội dung này đã được trả lời tại mục (5.1).
6. Công nghiệp xe máy
Vấn đề nổi cộm hiện nay:
Quyết định 356/ (Quy hoạch phát triển GTVT đường
bộ) có đề cập đến việc hạn chế số lượng xe máy ở mức 36 triệu chiếc vào năm
2020. Do thiếu số liệu thống kê chính thức và minh bạch liên quan đến số lượng
xe máy, giới hạn đề xuất đã đặt ra những khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động
trong ngành công nghiệp xe máy và ảnh hưởng đến đầu tư kinh doanh hiện tại và
các kế hoạch đầu tư trong tương lai.
Khuyến nghị:
6.1. Liên quan đến việc hạn chế số lượng xe máy:
Kính đề nghị Chính phủ chia sẻ những dự định, kế hoạch cần thiết để thị trường
chạm ngưỡng 36 triệu xe. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần công bố số liệu ngành
công nghiệp xe máy một cách minh bạch, kịp thời và thường xuyên (số lượng đăng
ký, số lượng xe lưu hành trên các tỉnh và cơ sở phân loại các loại xe theo dung
tích xi lanh, loại hình,…). Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp trong ngành có thể
đưa ra các kế hoạch và hoạt động kinh doanh phù
hợp.
Bộ Giao thông vận tải đề nghị Chính phủ chỉ đạo các
Bộ: Công Thương, Công an phối hợp thực hiện việc công bố các số liệu như đề xuất.
6.2. Tăng lệ phí xe: Chính phủ nên đưa ra các giải
pháp bền vững hơn như sự phát triển của các phương tiện giao thông công cộng,
cơ sở hạ tầng đường bộ tại các thành phố lớn cũng như nâng cao nhận thức và
tuân thủ giao thông của người tham gia giao thông sẽ giải quyết tích cực và hiệu
quả nạn ùn tắc giao thông thay vì tăng lệ phí xe
Đã trả lời tại mục (4).
6.3. Nhìn chung, các doanh nghiệp hoạt động
trong ngành kiến nghị Chính phủ xem xét lại giới hạn hạn chế số lượng xe máy và
việc tăng lệ phí do xe máy là phương tiện phục vụ đi lại cho hàng chục triệu
người dân Việt Nam trong rất nhiều năm. Vì vậy, nhu cầu cần thiết là phải có một
chiến lược dài hạn thống nhất để phát triển ngành công nghiệp xe máy của Việt
Nam.
Bộ GTVT hoàn toàn đồng tình cần phải có một chiến
lược dài hạn thống nhất để phát triển
ngành công nghiệp xe máy Việt Nam.
Vấn đề định hướng quy hoạch sẽ được Chính phủ chỉ đạo
các Bộ, ngành rà soát để bảo đảm đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai và
phù hợp thực tế.
Quyết định điều chỉnh quy hoạch phát triển giao
thông vận tải đường bộ xác định năm 2020 cả nước sẽ có khoảng 36 triệu xe máy.
Thực tế con số này sẽ đạt trước thời điểm đó, có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều
này, như: mạng lưới giao thông cộng cộng chưa đáp ứng nhu cầu đi lại của người
dân, chưa có hệ thống vận tải công cộng khối lượng lớn, việc kết nối các phương
thức vận tải còn rất hạn chế, đặc biệt là tại các đô thị lớn.
Để bảo đảm xe máy sẽ sử dụng chủ yếu ở các khu vực
nông thôn, nơi không có vận tải hành khách công cộng thì vấn đề mấu chốt Chính
phủ đang chỉ đạo quyết liệt là nhanh chóng thực hiện các giải pháp phát triển
VTHKCC, tăng cường trật tự hè phố cho người đi bộ, hoàn thiện mạng lưới tuyến
và có chính sách ưu đãi đối với dịch vụ
VTHKCC.
7. Về thủy sản
7.1. Nhà nước mở các lớp học về luật giao thông
đường biển nhằm nâng cao hiểu biết khi hoạt động trên biển. Nhà nước tổ chức cấp
kinh phí mở các lớp học tại địa phương cho các xã viên có trình độ để có bằng cấp
thuyền trưởng khi lái tàu ra biển đánh bắt cá. Ngư dân có trình độ văn hóa
không cao, lại kém hiểu biết về cơ khí, máy thủy. Do đó, rất nguy hiểm khi trục
trặc máy móc lúc trên biển. Vậy đề nghị Nhà nước cho học chuyên ngành để biết sửa
chữa máy móc (máy thủy).
Về đào tạo, cấp bằng cho thuyền viên nghề cá thuộc phạm
vi quản lý nhà nước về thủy sản của Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
7.2. Nhà nước quan tâm đến nơi neo đậu, bến bãi
để có chỗ cập bờ cho các thuyền viên khi tránh bão và sinh hoạt mỗi khi về bến.
Liên quan đến các vùng neo đậu tránh bão cho tàu
thuyền, ngày 01/02/2013, Bộ GTVT đã có Quyết định số 318/QĐ-BGTVT giao Cục HHVN
ra soát, cập nhật hoàn chỉnh "Quy hoạch các khu neo đậu tàu trú bão
trong hệ thống cảng biển Việt Nam" nhằm đáp ứng nhu cầu neo đậu trú
bão cho đội tàu vận tải, dịch vụ hoạt động trên vùng biển Việt Nam. Hiện nay,
Quy hoạch đã cơ bản hoàn thành và dự kiến Bộ GTVT phê duyệt trong tháng 7/2014
để làm cơ sở triển khai thực hiện.
8. Về hạ tầng cảng và vận tải biển
8.1. Phát triển
Trung tâm trung chuyển quốc tế phía Nam Việt Nam
Việt Nam hiện có một cơ hội lớn để phát triển một trung tâm trung chuyển container quốc
gia tại khu vực Cái Mép - Thị Vải. Chúng tôi đề nghị xây dựng một trung tâm
trung chuyển quốc tế tại Cái Mép và gắn liền với nó là trung tâm trung chuyển
các hàng hóa nội địa để tạo dựng một quy mô cần thiết cho việc trung chuyển quốc
tế này. Một trung tâm trung chuyển quốc tế tầm cỡ khu vực tại phía Nam không chỉ
hỗ trợ các nhà xuất nhập khẩu Bắc Nam trong việc giảm thời gian vận chuyển đến
thị trường tiêu thụ, giảm mức lưu kho mà còn giúp giảm tổng chi phí vận chuyển.
Điều này có ý nghĩa là chi phí trực tiếp cho xuất nhập khẩu sẽ được giảm nhẹ.
Do đó, việc phát triển trung tâm trung chuyển quốc tế tại Việt Nam sẽ trực tiếp
giúp giảm chi phí cho các ngành công nghiệp Việt Nam.
- Theo Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt
Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số 2190/QĐ-TTg ngày 24/12/2009 và Quy hoạch chi tiết Nhóm cảng
biển số 5 đã được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt tại Quyết định số
1745/QĐ-BGTVT ngày 03/8/2011 và theo nội dung rà soát, điều chỉnh các Quy hoạch
Cảng biển Bà Rịa - Vũng Tàu có chức năng là cảng tổng
hợp quốc gia, cửa ngõ quốc tế kết hợp trung chuyển công-ten-nơ quốc tế.
- Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang phối hợp với
các Bộ ngành, địa phương nghiên cứu các cơ chế chính sách, các giải pháp tăng
cường kết nối cảng biển và phát triển hạ
tầng logistics sau cảng nhằm thúc đẩy phát triển cảng tại Bà Rịa - Vũng Tàu
theo đúng định hướng quy hoạch được duyệt.
8.2. Về phí, lệ phí
hàng hải tại cảng biển
Mức giảm 40% cho chi phí bảo đảm hàng hải, phí
trọng tải và 50% cho phí hoa tiêu đã được áp dụng đối với tàu mẹ (>50,000
DWT) cập cảng trong khu vực Cái Mép - Thị Vải từ 1/1/2012 theo Thông tư 41 của
Bộ Tài chính. Quyết định này được đón nhận
nồng nhiệt bởi các công ty vận tải biển có tàu cập cảng Cái Mép - Thị Vải. Tuy
nhiên, mức giảm lớn hơn nữa đối với phí bảo đảm hàng hải và phí trọng tải đối với
tất cả các loại tàu cập tất cả các cảng tại Việt Nam nhằm khuyến khích các hãng
tàu có nhiều tàu cập cảng hơn. Động thái này sẽ ngay lập tức tăng tính cạnh
tranh của các cảng Việt Nam và vì vậy, sẽ thu hút nhiều doanh nghiệp và lượng
hàng từ các trung tâm trung chuyển khác của Châu Á như Singapore và Hong Kong.
Bộ GTVT đang chỉ đạo Cục Hàng hải Việt Nam xây dựng
Dự thảo Thông tư để đề nghị Bộ Tài chính thay thế Quyết định số 98/2008/QĐ-BTC
hướng dẫn thu phí, lệ phí hàng hải và biểu mức thu phí, lệ phí, trong đó nghiên
cứu hoàn thiện, cập nhật theo hướng "ưu đãi giảm phí trong thời gian khoảng
5 năm cho tất cả các tàu chuyên chở công-ten-nơ cập cảng Cái Mép - Thị Vải
không phân biệt dung tích, tải trọng; ưu đãi giảm phí cho các tàu mẹ chuyển tải
- tàu feeder cập cảng Cái Mép - Thị Vải" để khuyến khích việc phát triển cụm
cảng Cái Mép - Thị Vải, ưu tiên thu hút tàu công-ten-nơ cập các bến cảng có
công năng là cảng bốc xếp công-ten-nơ được nhà nước đầu tư tại khu vực này.
9. Về việc cấp phép vận tải nội địa
Thông báo gần đây cấp phép cho 4 tàu treo cờ nước
ngoài có thể vận chuyển container rỗng và có hàng giữa các cảng Việt Nam với hiệu
lực 6 tháng được chào đón nhiệt liệt và được coi là một sự phát triển theo đúng
hướng. Tuy nhiên, để duy trì tính ổn định cho hành trình vận chuyển, các hãng
tàu cần thời gian hiệu lực dài hơn 6 tháng. Thực tế Việt Nam sẽ tiếp tục đánh mất
các cơ hội nếu như thời hạn hiệu lực này không được gia hạn. Hơn nữa, việc chỉ
cấp phép tối đa 4 tàu nước ngoài trong khi mỗi tuyến vận chuyển cần ít nhất 3
tàu vận hành đồng thời đã làm giảm thiểu tác dụng đầy ý nghĩa của việc cấp phép
nói trên. Tiểu nhóm hạ tầng cảng và vận tải biển tiếp tục đề nghị kéo dài hiệu
lực của giấy phép vận tải nội địa đối với container có hàng và container rỗng với
thời hạn tối thiểu 2 năm. Chúng tôi cũng đề nghị cấp phép cho hãng tàu thay vì
cấp phép cho một số con tàu cụ thể. Nếu việc gia hạn thời hạn hiệu lực nói trên
không được xem xét, việc phát triển cảng trung chuyển phía Nam sẽ chậm lại và
thậm chí có thể đóng băng cả kế hoạch tổng thể này.
Quyền ưu tiên vận tải nội địa đối với hàng hóa,
hành khách và hành lý đã quy định rõ cho tàu biển Việt Nam tại Điều
7 Bộ Luật hàng hải Việt Nam năm 2005. Mặt khác, căn cứ thỏa thuận cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại Thế
giới (WTO) (Khoản a, b Mục A Phần 11), cam kết về dịch vụ vận tải biển với các
nước ASEAN và thỏa thuận trong các Hiệp định hàng hải giữa Việt Nam với các nước
đều không cam kết vận tải nội địa. Vận tải nội địa là quyền lợi của mỗi quốc gia và các quốc gia trên thế giới đều bảo
hộ quyền vận tải nội địa để khuyến khích phát triển đội tàu biển trong nước.
Căn cứ theo Thông tư 04/2009/TT-BGTVT ngày
29/2/2009 quy định về thủ tục cấp phép cho tàu nước ngoài vận tải nội địa chỉ cấp
phép cho các tàu trong một số các trường hợp
cụ thể. Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải chỉ cấp phép cho hai tàu feeder vận tải
vỏ công-ten-nơ chính hãng Maersk và công-ten-nơ hàng xuất cho tàu mẹ cập cảng
khu vực Cái Mép - Thị Vải trong thời hạn 06 tháng nhằm khuyến khích các hãng
tàu đưa tàu mẹ vào cập cảng khu vực Cái Mép - Thị Vải (CM - TV) theo chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ.
Việc gia hạn đối với các tàu này vẫn được tiếp tục
cho đến khi các doanh nghiệp cảng thuộc khu vực cảng biển Cái Mép - Thị Vải
kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, trong thời gian cấp phép vận tải nội địa,
hãng tàu có thể chủ động đề xuất thay thế tàu và sẽ được xem xét giải quyết thuận
lợi theo quy định, không ảnh hưởng đến việc kinh doanh khai thác của hãng tàu.
Về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cảng tại khu
vực cảng biển Cái Mép - Thị Vải: Để khuyến khích nâng cao hiệu quả khai thác của
các doanh nghiệp cảng khu vực Cái Mép - Thị Vải, Bộ Giao thông vận tải đang phối
hợp với UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và
các cơ quan liên quan thực hiện đồng bộ các giải pháp, cơ chế, chính sách liên
quan đến các giải pháp phí, giá dịch vụ; giải pháp về quản lý hoạt động khai
thác; giải pháp về điều chỉnh cung cầu hàng hóa, bến cảng và phát triển cơ sở hạ
tầng kết nối. Trong đó, một số giải pháp đã mang lại hiệu quả thiết thực, cụ thể,
trong Quý I/2014 tiếp nhận 2.000 lượt tàu, tăng 114%; hàng hóa thông qua cảng đạt
14 triệu tấn, tăng 122,3 so với cùng kỳ năm 2013.
Bộ Giao thông vận tải trân trọng cảm ơn quý Phòng
và cộng đồng các doanh nghiệp. Trong thời gian tới rất mong nhận được sự quan
tâm của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với ngành Giao thông vận tải./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng (để b/c);
- Tổng cục Đường bộ Việt Nam;
- Các Cục: HHVN, ĐKVN;
- Các Vụ: VT, QLDN, ATGT, KCHTGT;
- Văn phòng Ủy ban An toàn giao thông
Quốc gia;
- Trung tâm CNTT;
- Lưu: VT, V.Tải (Phong 5b).
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Lê Đình Thọ
|