Công văn 2357/TCT-HTQT năm 2015 áp dụng Hiệp định thuế giữa Việt Nam - Thái Lan do Tổng cục Thuế ban hành

Số hiệu 2357/TCT-HTQT
Ngày ban hành 16/06/2015
Ngày có hiệu lực 16/06/2015
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Tổng cục Thuế
Người ký Trần Thị Thanh Bình
Lĩnh vực Thuế - Phí - Lệ Phí

BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 2357/TCT-HTQT
V/v áp dụng Hiệp định thuế giữa Việt Nam - Thái Lan.

Hà Nội, ngày 16 tháng 06 năm 2015

 

Kính gửi: Công ty WPP (Thailand) Ltd - Atlas Communications.

Tổng cục Thuế nhận được công văn số 110214/Atlas ngày 11/02/2014 của Công ty WPP (Thailand) Ltd - Atlas Communications (sau đây gọi là WPP (Thailand) và các công văn ngày 18/6/2014, ngày 19/8/2014 và ngày 09/02/2015 bổ sung hồ sơ theo yêu cầu của Tổng cục Thuế) đề nghị hướng dẫn về việc áp dụng Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và Thái Lan (sau đây gọi là Hiệp định) đối với hợp đồng dịch vụ quảng cáo truyền thông giữa WPP (Thailand) và Công ty TNHH P&G Việt Nam. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:

1. Về việc áp dụng nội luật:

Điểm 2.a), Mục 3, Chương II, Thông tư số 60/2012/TT-BTC ngày 12/4/2012 của Bộ Tài chính quy định: tỷ lệ (%) thuế TNDN tính trên doanh thu chịu thuế đối với ngành dịch vụ là 5%; đối với thu nhập bản quyền là 10%.

2. Về việc áp dụng Hiệp định:

2.1. Về nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ hoạt động thiết kế:

- Theo quy định tại Hiệp định:

Khoản 1, 2 và 3, Điều 12 (Tiền bản quyền) của Hiệp định quy định:

“1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể phải chịu thuế tại Nước kia.

2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh và theo luật của Nước này nhưng nếu người nhận là người thực hưởng thì mức thuế được tính sẽ không vượt quá 15% tổng số tiền bản quyền được trả.

3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được sử dụng trong Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác giả của một tác phẩm văn học, nghệ thuật hay khoa học, kể cả phim, điện ảnh hoặc các loại phim khác hoặc các loại băng dùng trong phát thanh và truyền hình, bằng phát minh, nhãn hiệu thương mại, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật hoặc quyền sử dụng hoặc việc sử dụng thiết bị công nghiệp, thương nghiệp hoặc khoa học, hay trả cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương nghiệp hoặc khoa học.”

- Theo quy định tại Hợp đồng dịch vụ bổ sung (Supplemental Agreement) ngày 01/7/2013 và Hợp đồng Dịch vụ Marketing) giữa WPP (Thailand) và P&G Việt Nam:

Theo quy định tại Phần mở đầu, Điều 1.1.2 của Hợp đồng Dịch vụ Marketing) và Điều A.5 của Hợp đồng dịch vụ bổ sung, WPP (Thailand) có tiến hành hoạt động thiết kế và tổng giá trị thanh toán mà WPP (Thailand) nhận được từ P&G Việt Nam theo Điều A.2 của Hợp đồng dịch vụ bổ sung có một phần thu nhập từ việc thiết kế. Đây là khoản thu nhập có tính chất bản quyền theo quy định tại Khoản 3, Điều 12 của Hiệp định nêu trên.

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 12 của Hiệp định, thu nhập bản quyền này có thể bị đánh thuế tại Việt Nam với mức thuế suất không vượt quá 15% trên tổng số tiền bản quyền được trả.

Căn cứ các quy định tại Khoản 2, Điều 12 của Hiệp định và Điểm 2.a), Mục 3, Chương II, Thông tư số 60/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính, thu nhập từ tiền bản quyền WPP (Thailand) thu được từ việc thực hiện Hợp đồng dịch vụ bổ sung với P&G Việt Nam sẽ phải chịu thuế TNDN tại Việt Nam theo tỷ lệ 10% trên doanh thu tính thuế.

2.2. Về nghĩa vụ thuế đối với thu nhập từ hoạt động kinh doanh:

Thu nhập từ các dịch vụ khác do WPP (Thailand) cung cấp cho P&G Việt Nam theo quy định của Hợp đồng dịch vụ bổ sung được coi là thu nhập từ hoạt động kinh doanh và sẽ thuộc diện điều chỉnh của Khoản 1, Điều 7 (Lợi tức doanh nghiệp) của Hiệp định. Cụ thể:

“1. Thu nhập hay lợi tức của xí nghiệp tại một Nước ký kết sẽ chịu thuế tại Nước đó, trừ trường hợp xí nghiệp có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia. Nếu xí nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các khoản thu nhập hay lợi tức của xí nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần thu nhập hay lợi tức phân bổ cho cơ sở thường trú đó.”

Về việc xác định cơ sở thường trú, Điều 5 (Cơ sở thường trú) của Hiệp định quy định:

“1. Theo Hiệp định này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định mà qua đó xí nghiệp thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.

2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ yếu bao gồm:

a. trụ sở điều hành;

b. chi nhánh;

c. văn phòng;

d. nhà máy;

e. xưởng;

f. mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác;

g. một địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp hay các hoạt động giám sát những cơ sở trên, nếu thời gian hoạt động của địa điểm, công trình hay hoạt động đó kéo dài liên tục vượt quá sáu tháng.

[...]