BỘ
VĂN HÓA, THỂ THAO
VÀ DU LỊCH
-----------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------------
|
Số: 2282/BVHTTDL-VHCS
V/v tăng cường công tác quản lý và tổ chức
lễ hội
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 07 năm 2009
|
Kính
gửi:
|
- Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc TW;
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
|
Thời gian qua, các cơ quan chức
năng của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Vụ Văn hóa Văn nghệ - Ban
Tuyên giáo Trung ương tổ chức kiểm tra, khảo sát đánh giá công tác quản lý tổ
chức lễ hội tại một số tỉnh, thành phố; Để công tác quản lý và tổ chức các hoạt
động lễ hội đi vào nề nếp, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị các cơ quan
nghiên cứu báo cáo chuyên đề ngày 24 tháng 6 năm 2009 của Vụ Văn hóa Văn nghệ,
đồng thời rà soát, chấn chỉnh, tăng cường công tác quản lý và tổ chức lễ hội
trên địa bàn, tập trung vào một số nội dung cụ thể như sau:
1. Về thời gian tổ chức lễ
hội: tiến hành rà soát lại các lễ hội, tránh tình trạng mở hội liên tục,
gây lãng phí tốn kém nhất là các lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch.
2. Về nội dung lễ hội:
- Phần lễ: đẩy mạnh công
tác nghiên cứu khoa học, tổ chức nghi thức dâng hương, nghi thức và lễ rước
trang trọng, thể hiện sự tôn nghiêm và kế thừa nghi lễ truyền thống lịch sử,
phản ánh được bản sắc văn hóa địa phương, trang trọng, tiết kiệm.
- Phần hội: kết hợp tổ
chức các hoạt động văn hóa thể thao truyền thống và hiện đại, khôi phục các trò
chơi trò diễn dân gian đậm đà bản sắc dân tộc, giới thiệu về lịch sử của danh
nhân và các nhân vật thờ tự gắn với nguồn gốc, xuất xứ của lễ hội, tăng cường
giới thiệu thành tựu kinh tế xã hội, địa điểm, tour, tuyến du lịch và sản vật
của địa phương cho du khách.
3. Về cơ sở vật chất, hoạt
động kinh doanh dịch vụ và vệ sinh môi trường: tăng cường công tác đầu tư
nâng cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ lễ hội, đặc biệt chú trọng vấn đề vệ
sinh môi trường và an toàn vệ sinh thực phẩm, chú trọng việc trồng cây xanh tạo
môi trường xanh, sạch, đẹp trong không gian tổ chức lễ hội. Có biện pháp ngăn
ngừa tình trạng nâng giá, ép giá hàng quá cao tại lễ hội.
4. Về sử dụng nguồn lực tham
gia lễ hội: chú trọng sử dụng nguồn lực tại chỗ, lực lượng quần chúng tham
gia chương trình hoạt động lễ hội, giao cho ngành văn hóa, thể thao và du lịch
của địa phương tổ chức thực hiện, hạn chế việc thuê khoán dàn dựng kịch bản gây
nhàm chán, tốn kém hiệu quả thấp gây bức xúc trong dư luận và nhân dân.
5. Thực hiện nếp sống văn
hóa: tăng cường tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn hóa,
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động dịch vụ văn hóa và có
biện pháp ngăn chặn các sai phạm, tệ nạn nảy sinh trong lễ hội. Không khuyến
khích tổ chức các lễ hội các nội dung phản cảm, hiệu quả giáo dục thấp. Tuyên
truyền, giáo dục cán bộ công chức thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về
nâng cao hiệu quả sử dụng thời giờ làm việc, không lạm dụng thời gian tham gia
hoạt động lễ hội.
6. Về quản lý sử dụng tiền
công đức: quản lý và sử dụng nguồn thu công đức đúng mục đích nhằm khai
thác có hiệu quả lễ hội và bảo vệ di tích, đảm bảo sự minh bạch, tăng nguồn thu
cho ngân sách địa phương. Chấn chỉnh việc đặt nhiều hòm công đức, nhiều ban thờ
trong di tích làm sai lệnh ý nghĩa từ tâm hướng thiện của nơi thờ tự.
Lễ hội là di sản của mỗi địa
phương và cả nước, trước áp lực nhu cầu tổ chức lễ hội và lực lượng du khách
tham dự lễ hội ngày càng cao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị Ủy ban
nhân dân các tỉnh thành phố quan tâm chỉ đạo thực hiện để hoạt động lễ hội gắn
với hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch góp phần quảng bá hình ảnh đất nước
và con người Việt Nam, đồng thời giữ gìn sự trong sáng của lễ hội.
Trân trọng cảm ơn sự phối hợp
chỉ đạo thực hiện của Quý Cơ quan.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ban Tuyên giáo Trung ương (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ (để báo cáo);
- Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh (để báo cáo);
- Lưu: VT (01), VHCS, TTTM 100.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Huỳnh Vĩnh Ái
|
BAN
TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG
VỤ VĂN HÓA – VĂN NGHỆ
---------
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
------------
|
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 06 năm 2009
|
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
MỘT
SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ LỄ HỘI NĂM 2009
Những năm qua, được sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước, các lễ hội được tổ chức, chỉ đạo và quản lý tốt, được
nhân dân các địa phương hưởng ứng, tạo nên một đời sống văn hóa tinh thần phong
phú trong cộng đồng các dân tộc.
Lễ hội là di sản văn hóa dân
tộc, là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng hấp dẫn, thu hút mọi tầng lớp
nhân dân cùng tham gia, hưởng thụ. Lễ hội là chứng chỉ quan trọng tạo nên bản
sắc văn hóa của dân tộc. Những năm trước đây, do nhận thức chưa đúng trong quản
lý xã hội và văn hóa, ở nhiều địa phương đã coi các cơ sở thờ tự: đình, chùa
đền, miếu và hoạt động lễ hội là tàn dư của chế độ cũ, cần dẹp bỏ. Nhu cầu
chính đáng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân chưa được coi trọng
đúng mức. Trong một thời gian dài các hoạt động lễ hội không được tổ chức hoặc
tổ chức một cách hình thức (nhà nước hóa), nhiều hình thức tế lễ, trò chơi dân
gian bị loại bỏ khiến cho lễ hội trở nên đơn điệu, thiếu hấp dẫn. Những năm gần
đây, lễ hội ngày càng được phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Nó là một sinh hoạt
văn hóa cần thiết để bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc nhưng cũng do đặc thù của
nhiều lễ hội, phong tục, tín ngưỡng ở một số nơi, môi trường lễ hội dễ phát
sinh những hạn chế, bất cập, hủ tục…
1. Tình hình tổ chức lễ hội
hiện nay
Theo thống kê của Cục Văn hóa cơ
sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch năm 2008, cả nước có 7966 lễ hội, có tài
liệu ghi có gần 8300 lễ hội được tổ chức trên phạm vi cả nước, trong đó, riêng
các tỉnh khu vực đồng bằng Bắc bộ có gần 4.300 lễ hội (chiếm hơn 50%) qui mô từ
làng xã đến cấp Quốc gia và mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền. Các địa phương
có nhiều lễ hội như: Hà Nội: 1078; Bắc Giang: 495; Bắc Ninh: 465; Thái Bình:
450; Hải Dương: 567; Hưng Yên: 364…Ở các địa phương này, hầu như làng (thôn)
nào cũng có lễ hội riêng của mình. Ngoài ra, khu vực này còn là nơi tập trung
những lễ hội cấp quốc gia, vùng miền tiêu biểu như: Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội
đền Hùng, Lễ hội Chùa Hương (Hà Nội), Lễ hội Côn Sơn – Kiếp bạc (Hải Dương); Lễ
hội Yên Tử (Quảng Ninh), Lễ hội Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), Lễ hội Phủ Dày (Nam
Định), Hội Lim (Bắc Ninh)…
Việc tổ chức lễ hội ở các tỉnh
khu vực phía Bắc mấy năm gần đây đã dần đi vào ổn định. Cơ sở hạ tầng ở các di
tích được đầu tư tốt. Công tác tổ chức ngày càng tốt hơn, đã dẹp bỏ được nhiều
điểm thờ tự giả (Chùa Hương, Yên Tử), bảo đảm an toàn cho khách hành hương, dẹp
bỏ được nhiều tệ nạn và trò lừa gạt du khách. Các nghi lễ, trò chơi dân gian
truyền thống được phục hồi, tổ chức trang trọng. Nhiều hình thức sinh hoạt văn
hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được tổ chức góp phần làm phong phú phần hội,
thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
Các tỉnh miền núi phía Bắc, miền
Trung và Tây Nguyên có số lượng lễ hội ít, quy mô nhỏ. Số tỉnh lễ hội rất ít,
như: Hà Giang: 10; Yên Bái: 27; Lai Châu: 29; Nghệ An: 29; Đà Nẵng: 19; Lâm
Đồng: 16; Quảng Bình: 42… Hầu hết lễ hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc là lễ hội
xuống đồng, mở đầu mùa trồng trọt. Các tỉnh khu vực miền Trung chỉ có một số lễ
hội mới: Lễ hội thống nhất non sông ở Quảng Trị, Festival Huế, Quảng Nam – Hành
trình di sản… được tổ chức với quy mô lớn. Lễ hội dân gian có lễ hội Quan Thế
âm ở Đà Nẵng, lễ hội Vía Bà Thiên Yana ở Quảng Nam là có quy mô khu vực, còn
lại chủ yếu là lễ hội cầu ngư của các cư dân ven biển, gắn kết nghi thức sinh
hoạt văn hóa dân gian với ý nghĩa ngày hội nghề nghiệp.
Khu vực các tỉnh phía Nam có đặc
điểm khác biệt là số lượng lễ hội tôn giáo và lễ hội lịch sử cách mạng chiếm tỉ
lệ lớn trong tổng số lễ hội. Trong số 2.269 lễ hội ở khu vực này, có tới 859 lễ
hội tôn giáo và 209 lễ hội lịch sử cách mạng (chiếm gần 50%). Cả nước có khoảng
10 lễ hội du nhập từ nước ngoài thì phần lớn đều ở các tỉnh phía Nam (Thành phố
Hồ Chí Minh). Một số lễ hội lớn quy mô khu vực ở các tỉnh phía Nam đều là lễ
hội tôn giáo và lễ hội lịch sử cách mạng, như: Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam (An
Giang) mỗi năm đón hàng triệu du khách; lễ hội Đền Nguyễn Trung Trực (Rạch Giá
– Kiên Giang) mỗi năm thu hút hơn nửa triệu người dự.
2. Đánh giá về công tác quản
lý và tổ chức lễ hội
a. Những việc đã làm được
- Công tác quản lý và tổ chức lễ
hội nhìn chung ngày càng tốt hơn, thực hiện theo đúng tinh thần các văn bản chỉ
đạo của Đảng, các Nghị định của Chính phủ và Quy chế của Bộ Văn hóa - Thông tin
(nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Qua hoạt động của các Ban tổ chức lễ
hội, vai trò chỉ đạo, quản lý của chính quyền cơ sở, cơ quan quản lý nhà nước
về văn hóa ngày càng được nâng cao, đồng thời vai trò chủ động, sáng tạo của
quần chúng nhân dân cũng được phát huy. Hạn chế dần được hình thức nhà nước hóa
các lễ hội dân gian truyền thống.
- Công tác tuyên truyền phục vụ
lễ hội ngày càng đa dạng, phong phú góp phần nâng cao nhận thức cho nhân dân về
giá trị di sản và công đức các danh nhân, từ đó việc giáo dục truyền thống của
lễ hội đạt kết quả tốt. Có nhiều địa phương đã làm tốt công tác tuyên truyền,
quảng bá, góp phần không nhỏ trong việc kéo khách trong và ngoài nước đến lễ
hội.
Ví dụ: Nhờ làm tốt công tác này,
từ dịp kỷ niệm 100 năm Sapa (năm 2003) đến năm 2004 lượng du khách tham quan
Sapa tăng gấp 1,5 lần, số quốc gia có khách đến Sapa tăng 2 lần. Từ năm 2005
đến nay, bình quân khách tới Sapa tăng từ 18-25%/năm.
Năm 2005, cơ quan thiên văn – vũ
trụ thông tin về hiện tượng Nhật thực toàn phần, thì ở Việt Nam địa điểm Mũi
Né, Bình Thuận là nơi quan sát rõ nhất. Tận dụng cơ hội này, tỉnh Bình Thuận đã
tập trung tuyên truyền, tổ chức lễ hội “Bình Thuận – Hội tụ xanh” thu hút được
lượng khách rất lớn đến Mũi Né. Thấy được tiềm năng lớn về du lịch của vùng đất
này, nhiều công ty trong và ngoài nước đầu tư phát triển các ngành dịch vụ, du
lịch. Từ đó đến nay, lượng khác du lịch đến đây tăng đột biến, tạo ra một cú
hích cho sự phát triển kinh tế và cũng từ đó Bình Thuận coi sự kiện Nhật thực
như một mốc son cho sự phát triển của địa phương.
- Cơ sở vật chất tại các di sản
văn hóa, các khu di tích lịch sử cách mạng ngày càng được chú ý đầu tư, nâng
cấp, chỉnh trang. Nhiều địa phương đã thực hiện tốt quy hoạch và tổ chức dịch
vụ, hạn chế được tình trạng lộn xộn, bắt chẹt, lừa đảo du khách.
- Hoạt động lễ hội kết hợp với
hoạt động văn hóa, du lịch góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người
Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều địa phương đã thực hiện
tốt mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong tổ chức các hoạt động lễ hội.
3. Một số tồn tại yếu kém cần
lưu ý, khắc phục
- Tổ chức lễ hội tràn lan, phô
trương, lãng phí.
Một số địa phương tổ chức các lễ
hội: Lễ hội văn hóa – du lịch, Fertival, lễ kỷ niệm thành lập, tái lập địa
phương … bằng ngân sách Nhà nước nhưng hiệu quả kinh tế - xã hội thấp, gây lãng
phí tiền bạc và thời gian. Bình quân mỗi lễ hội văn hóa – du lịch chi phí từ 5
đến 15 tỷ.
Một vấn đề khiến dư luận xã hội
quan tâm là sự tham gia tổ chức và quản lý lễ hội của các công ty Quảng cáo,
công ty Tổ chức sự kiện vào các lễ hội lớn ở các địa phương. Một số ý kiến ủng
hộ thì cho rằng, muốn tổ chức lễ hội có chất lượng thì phải nhờ cơ quan có
chuyên môn sâu, đó là các công ty Quảng cáo, công ty Tổ chức sự kiện. Các Công
ty này mới có đủ năng lực hợp tác với các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực tổ
chức lễ hội để thực hiện. Ngược lại, nhiều ý kiến (chủ yếu là cán bộ lãnh đạo
các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) lại phản đối cho rằng các công ty này
không có chuyên môn về văn hóa, thể thao, du lịch, lại không am hiểu cái hồn,
cái bản sắc văn hóa địa phương, họ chỉ là những cai thầu không có quân, trong
báo cáo thì dự định mời rất nhiều chuyên gia có tên tuổi tham gia, khi thực
hiện thì không phải vậy, quanh quẩn lại chỉ có một người hoặc một nhóm người,
dẫn đến tình trạng kịch bản lễ hội các địa phương và vật dụng biểu diễn thường
na ná giống nhau. Một lý do gây bức xúc nhất là kinh phí tổ chức được giao cho
các công ty này thường cao hơn nhiều lần so với nếu giao cho ngành văn hóa thực
hiện và đáng lẽ ngành văn hóa thể thao du lịch là chủ (phải được lãnh đạo tỉnh
giao cho thực hiện) thì lại chỉ là người làm thuê cho các công ty kia (giao cho
việc huy động nhân lực tại chỗ, thực hiện một số việc mang tính trợ giúp và
được trả một khoản chi phí nào đó). Ý kiến của đa số đại biểu tại các buổi tọa
đàm là sở dĩ các công ty Quảng cáo và Tổ chức sự kiện nhận được việc tổ chức lễ
hội là do có sự “giới thiệu” của một số cán bộ có chức quyền ở cả Trung ương và
địa phương.
Việc lễ hội tổ chức tràn lan,
lãng phí, có xu hướng thương mại hóa một phần là do có những biểu hiện tiêu cực
trong việc tổ chức các lễ hội mới. Đây là điều các cấp cần nghiêm túc xem xét,
chấn chỉnh.
- Sự phục hồi theo xu hướng nệ
cổ máy móc hoặc cải biên, đưa thêm nhiều nghi thức tế lễ pha tạp, vay mượn vào
các lễ hội dân gian tạo ra sự phản cảm, làm mất bản sắc văn hóa của lễ hội
truyền thống. Ví dụ: nhiều lễ hội truyền thống địa phương trước đây không có
hình thức tế lễ, như: tế Nữ quan, múa Sinh tiền, múa Rồng, múa Lân, nhưng do
các địa phương lận cận muốn đưa các hình thức tế lễ ấy sang tham gia, làm cho
nhiều lễ hội phát sinh thêm nhiều hình thức tế lễ vốn xưa không có.
Kịch bản của các lễ hội văn hóa
– du lịch, phần lễ còn nặng về sân khấu hóa tốn kém, đơn điệu, các hoạt động
biểu diễn không có sự đầu tư kỹ về nội dung, chất lượng nghệ thuật nên lễ hội
của các địa phương đều na ná như nhau, tạo ra sự nhàm chán. Theo thống kê của
các nhà chuyên môn, năm 2003 có 8 kịch bản của lễ hội văn hóa – du lịch ở 8 địa
phương giống như đúc (của 1 hoặc 1 nhóm tác giả).
- Thời gian tổ chức lễ hội có xu
hướng kéo dài hơn, vượt quá quy định, đặc biệt là các lễ hội lớn. Mật độ lễ hội
thường tập trung dày đặc vào đầu năm âm lịch, lại bị ảnh hưởng bởi tâm lý “ra
giêng ngày rộng tháng dài” nên nhiều cơ quan, đơn vị tổ chức cho cán bộ, công
nhân viên đi lễ hội, hoặc nhân lễ hội kéo nhau đi giao lưu, gây lãng phí thời
gian, tiền bạc cũng tạo ra bức xúc trong dư luận xã hội.
- Một số vấn đề đáng lo ngại nữa
là vấn đề ý thức người dân tham gia lễ hội. Ý thức người dân đi hội ngày xưa
khác hơn so với ngày nay. Xưa, trước tiên người ta đi hội là để lễ Thánh, cầu
Phật, do vậy ý thức về sự thiêng liêng và sự thành kính được đặt lên hàng đầu.
Đi hội là cái tâm phải thiện. Làm việc gì xấu người ta cũng liên tưởng đến sự
trừng phạt của thánh thần mà hậu quả khó lường trước. Nay, nhiều người đi hội
ít bị chi phối bởi tâm lý đó nên khi đến hội họ làm những gì họ muốn như viết,
khắc tên vào di tích, bẻ cây, ngắt hoa… Điển hình như ở các kỳ lễ hội hoa Anh
đào ở Hà Nội. Các năm trước, chưa đến ngay kết thúc lễ hội đã chẳng còn nhành
hoa nào, năm nay, hoa không bị bẻ là do mỗi gốc hoa có tới hơn chục người đứng
gác. Vì vậy, có một nghịch lý: hình như nếp sống văn minh khi đi hội của người
dân ngày xưa tốt hơn ngày nay, mặc dù dân trí nay cao hơn nhiều so với xưa.
- Ô nhiễm môi trường ở các lễ
hội cũng là vấn đề nan giải. Có một thực tế là, xưa kia, mức sống còn thấp nên
khi đi hội, người dân chỉ có ít đồ lễ, thức ăn và đều là những thứ dễ tự hủy
sau thời gian hội. Nay thì đồ hộp, túi nilông, vàng mã toàn bằng giấy trang
kim… Bên cạnh sự thay đổi về điều kiện sinh hoạt còn do ý thức con người. Dân
chưa có thói quen, khi đó cơ quan quản lý chưa có biện pháp khả thi. Do vậy, cứ
sau ngày hội ở một số địa điểm tổ chức lễ hội chẳng khác mấy cảnh bãi rác và
nồng nặc mùi sú uế.
- Xu hướng gia tăng các hiện
tượng tiêu cực trong tổ chức, hoạt động lễ hội:
+ Biểu hiện bức xúc nhất, khó
khắc phục nhất là việc người dân chiếm dụng không gian di tích mở hàng quán
dịch vụ lộn xộn, lợi dụng tâm lý người đi hội để lừa đảo, ép giá.
+ Nạn cờ bạc trá hình, núp dưới
các trò chơi giải trí ăn tiền để lừa bịp, móc túi những người nhẹ dạ, cả tin,
hám lợi được tổ chức công khai và thường sử dụng loa đài có công suất lớn lấn
át không khí lễ hội và tạo sự phản cảm với du khách.
+ Các hoạt động mê tín dị đoan ngày
càng phát triển và công khai: xóc thẻ, đốt vàng mã, bày bán các ấn phẩm có nội
dung mê tín, lên đồng, bói toán… thậm chí có nơi còn lợi dụng đưa tượng, ảnh
Bác vào nơi thờ tự nhằm trục lợi về kinh tế.
+ Tình trạng ùn tắc giao thông,
mất an toàn cho du khách ngày càng tăng, tạo tâm lý khó chịu, lo sợ cho du
khách.
- Về công tác xã hội hóa tổ chức
lễ hội.
Chủ trương xã hội hóa hoạt động
văn hóa trong việc tổ chức lễ hội đang có xu hướng bị hiểu và thực hiện một
cách sai lệch:
+ Việc cúng tiến, công đức của
các tổ chức, cá nhân cho tu bổ di tích ngày một tăng nhưng hiện tượng tùy tiện
tu sửa, không được sự đồng ý của cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa đã làm phá
vỡ yếu tố nguyên gốc của di tích. Gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng
đang tập trung phản ánh nhiều vấn đề bức xúc trong công tác trùng tu, tôn tạo
các di tích lịch sử - văn hóa. Có tới gần 1500 tỷ đồng chi cho việc trùng tu,
tôn tạo di tích trong vài năm gần đây (trong đó ngân sách nhà nước cho trên 900
tỷ đồng). Do sự kém hiểu biết của một số chính quyền địa phương và sự thiếu chỉ
đạo chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, một số di tích lịch sử -
văn hóa lâu đời, khi xuống cấp, được dỡ bỏ để xây mới hoàn toàn, điển hình như
đền thờ Lý Chiêu Hoàng ở Bắc Ninh (một đền thờ vào loại cổ được xây dựng từ hơn
700 năm trước và ln đền thờ vị vua nữ). Việc công đức mang tính phô trương, tạo
sự lãng phí và phản cảm (cung tiến cặp bánh trưng, bánh dày ở lễ hội đền Hùng
năm 2008).
+ Chủ trương xã hội hóa cũng đang
bị hiểu sai khi thực hiện việc đấu thầu quản lý và khai thác các di tích hoặc
để cho cá nhân, đơn vị bao thầu tổ chức lễ hội. Việc cho phép khoán thầu trong
việc quản lý di tích và tổ chức hoạt động lễ hội ở một số địa phương đã gần như
chuyển quyền quản lý, sử dụng di tích vốn là của chung dân chúng thành của
riêng một số gia đình (điển hình là khu vực Phủ Dày – Nam Định).
4. Một số đề xuất, kiến nghị:
- Trong việc bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa (lễ hội), đang nảy sinh những mâu thuẫn:
+ Nhu cầu hưởng thụ văn hóa của
nhân dân ngày càng cao dẫn đến nhu cầu tổ chức lễ hội ngày càng gia tăng ở các
địa phương trong khi khả năng tổ chức, quản lý còn nhiều bất cập, còn thiếu
những hướng dẫn, quy định cụ thể, phù hợp nên dễ nảy sinh xu hướng tổ chức tràn
lan, phô trương, lãng phí, hiệu quả kinh tế - xã hội thấp, gây bức xúc dư luận.
+ Nhiều lễ hội truyền thống gắn
với những phong tục, tập quán lạc hậu, không còn phù hợp với đời sống hiện đại
nhưng nếu bỏ đi phong tục cũ có thể không còn gì là bản sắc, nếu giữ lại thì
không còn phù hợp, gây phản cảm … (Ví dụ như lễ hội đâm trâu, lễ hội bỏ mả của
đồng bào dân tộc khu vực miền Trung – Tây Nguyên).
+ Một số lễ hội du nhập từ nước
ngoài vào không phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của dân ta, thường
được một bộ phận lớp trẻ tiếp nhận một cách lai căng, nhưng nếu ngăn cấm thì
không phù hợp với chủ trương hội nhập văn hóa…
Những vấn đề trên, đòi hỏi chúng
ta phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ
trên lĩnh vực này.
- Công tác tuyên truyền trước
đây chủ yếu chú trọng việc quảng bá thông tin để kéo du khách đến với lễ hội,
chưa chú trọng nội dung thông tin mang tính phổ biến, giáo dục để du khách nắm
được quy định, tự điều chỉnh hành vi, góp phần xây dựng nếp sống văn minh, hạn
chế các biểu hiện tiêu cực (trong cách ăn mặc, vui chơi, lễ bái, mua sắm, giữ
gìn vệ sinh…).
- Cần có quy hoạch và quy định
cụ thể, chặt chẽ về việc tổ chức các dịch vụ phục vụ tại khuôn viên các khu di
tích, tránh tình trạng hàng quán lộn xộn, chiếm dụng hết không gian di tích,
tạo sự phản cảm cho du khách như hiện nay ở một số lễ hội lớn: Chùa Hương, Phủ
Dày, Bà chúa Xứ núi Sam, Hội Lim…
- Trong tình hình thực tế hiện
nay, các địa phương cân nhắc giao cho các công ty Quảng cáo, công ty Tổ chức sự
kiện (theo kiểu giao khoán) trong việc tổ chức các lễ hội văn hóa – du lịch khi
họ chưa có đủ điều kiện tổ chức, nên xem xét giao cho ngành văn hóa, thể thao
và du lịch tổ chức thực hiện để giúp cán bộ trong ngành có dịp thể hiện, góp
phần nâng cao trách nhiệm, nâng cao trình độ chuyên môn, tránh được sự lãng phí
và những dị nghị, bức xúc trong dư luận xã hội.
- Các cơ quan Đảng cần có quy
định và biện pháp ngăn chặn, xử lý việc tổ chức cho cán bộ, nhân viên đi lễ hội
vào ngày làm việc, sử dụng xe công đi hội. Cán bộ, đảng viên, đặc biệt là các
đồng chí có chức có quyền, cán bộ cấp cao nên tránh đến những điểm thờ tự, nơi
tổ chức các lễ hội mang tính tâm linh – mê tín để tránh kẻ xấu lợi dụng tung
những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ danh dự cán bộ, gây hiểu lầm trong quần
chúng.
VỤ
VĂN HÓA – VĂN NGHỆ