Công văn số 1989/BXD-VP về việc giải đáp các vướng mắc, kiến nghị trong quản lý đầu tư xây dựng do Bộ Xây dựng ban hành
Số hiệu | 1989/BXD-VP |
Ngày ban hành | 19/09/2007 |
Ngày có hiệu lực | 19/09/2007 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Bộ Xây dựng |
Người ký | Nguyễn Văn Liên |
Lĩnh vực | Xây dựng - Đô thị |
BỘ XÂY DỰNG |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1989/BXD-VP |
Hà nội, ngày 19 tháng 09 năm 2007 |
Kính gửi : Sở Xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Trong Hội nghị Kiểm điểm công tác 6 tháng đầu năm 2007 và bàn biện pháp thực hiện kế hoạch 6 tháng cuối năm 2007 diễn ra tại Bộ Xây dựng vào ngày 17/7/2007, các Sở xây dựng đã nêu ra các vướng mắc, kiến nghị trong quản lý đầu tư xây dựng tại địa phương. Bộ Xây dựng đã tổng hợp, nghiên cứu các vướng mắc, kiến nghị này và có ý kiến như sau:
1. Về quy hoạch xây dựng trong hồ sơ thiết kế cơ sở:
Trong hồ sơ thiết kế cơ sở, quy hoạch xây dựng phải là quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 được lập trên cơ sở quy hoạch chi tiết xây dựng 1/2000 được các cơ quan có thẩm quyền tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt theo phân cấp. Trường hợp chưa có quy hoạch chi tiết được duyệt, giải quyết như sau :
Đối với dự án đầu tư công trình đơn lẻ, không có trong quy hoạch xây dựng hoặc chưa có quy hoạch xây dựng thì trước khi lập dự án đầu tư xây dựng công trình, chủ đầu tư phải báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để được xem xét chấp thuận về vị trí, quy mô; sau đó chủ đầu tư lập quy hoạch tổng mặt bằng trình duyệt theo quy định; đồng thời Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức điều chỉnh hoặc lập quy hoạch xây dựng theo quy định (khoản 2, mục II, phần I của Thông tư số 02/2007/TT-BXD ngày 14/02/2007 của Bộ Xây dựng hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình; giấy phép xây dựng và tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình quy định tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 và Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ).
Đối với dự án đầu tư xây dựng công trình tập trung (khu đô thị, khu công nghiệp…) chủ đầu tư có trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 thuộc phạm vi dự án do mình quản lý và trình cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt theo quy định tại điểm 1c, khoản III, mục II của Thông tư số 15/2005/TT-BXD ngày 19/8/2005 của Bộ Xây dựng hướng dẫn lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng.
2. Về sự kết nối với các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào:
Trong quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 được duyệt phải thể hiện được vị trí đấu nối hệ thống hạ tầng kỹ thuật của từng công trình với hệ thống hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào (hạ tầng kỹ thuật chung của khu vực), kèm theo công suất đấu nối cho phép. Khi thẩm định quy hoạch chi tiết xây dựng, cơ quan quản lý xây dựng theo phân cấp có trách nhiệm lấy ý kiến của các cơ quan quản lý các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào. Như vậy, khi thẩm định thiết kế cơ sở, cơ quan thẩm định thiết kế cơ sở không yêu cầu chủ đầu tư phải xin thoả thuận vị trí và công suất đấu nối với các cơ quan quản lý các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, mà chỉ xem xét sự phù hợp của thiết kế cơ sở với quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 được duyệt.
3. Về cấp giấy phép xây dựng cho công trình ở khu vực chưa có quy hoạch chi tiết 1/500 được duyệt:
Theo quy định tại khoản 1, Điều 65 của Luật Xây dựng thì một trong những điều kiện để công trình được cấp giấy phép xây dựng là phải phù hợp với quy hoạch chi tiết xây dựng đã được phê duyệt. Song trong thực tế hiện nay quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 ở hầu khắp các địa phương chưa được phủ kín, nên căn cứ để xem xét cấp giấy phép xây dựng gặp nhiều khó khăn.
Để tháo gỡ vướng mắc này, các Sở Xây dựng địa phương cần tham mưu và đề xuất với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo và tập trung mọi nguồn lực để tổ chức lập và phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 (đối với những khu vực thuộc về trách nhiệm của địa phương phải lập quy hoạch chi tiết 1/500) để làm căn cứ cho việc xem xét cấp phép xây dựng và quản lý xây dựng theo quy hoạch, trước mắt ưu tiên cho những khu vực có nhu cầu đầu tư lớn. Trường hợp chưa kịp lập quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 với đầy đủ các nội dung theo đúng quy định, thì bước đầu có thể xác định một số nội dung cần quản lý liên quan đến giấy phép xây dựng trong đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 như: vị trí, ranh giới, quy mô các khu chức năng; các chỉ tiêu về mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất, tầng cao, cốt xây dựng; chỉ giới đường đỏ, chỉ giới xây dựng; phạm vi và hành lang bảo vệ đê điều, các công trình kỹ thuật; các quy định về kiến trúc để làm cơ sở cho việc cấp phép xây dựng và quản lý xây dựng; sau đó phải tiếp tục bổ sung và hoàn thiện đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 trình thẩm định, phê duyệt theo quy định.
4. Về hồ sơ xin giấy phép xây dựng đối với công trình thuộc dự án đã có thiết kế cơ sở được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định:
Đối với công trình thuộc dự án theo quy định phải xin giấy phép xây dựng mà đã có thiết kế cơ sở được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định, thì hồ sơ xin giấy phép xây dựng được quy định tại khoản 3, mục II, Phần II của Thông tư số 02/2007/TT-BXD ngày 14/02/2007 của Bộ Xây dựng hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình; giấy phép xây dựng và tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình quy định tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 và Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ.
Đối với trường hợp cơ quan cấp giấy phép xây dựng không đồng thời là cơ quan thẩm định thiết kế cơ sở, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp giấy phép xây dựng và quản lý xây dựng theo giấp phép, Bộ Xây dựng sẽ có hướng dẫn riêng theo hướng ngoài các tài liệu theo quy định nêu trên, Chủ đầu tư cần bổ sung thêm vào trong hồ sơ xin giấy phép xây dựng một số bản vẽ có trong Hồ sơ thiết kế cơ sở đã được thẩm định, liên quan đến nội dung quản lý trong giấy phép xây dựng như: Bản vẽ thiết kế thể hiện được vị trí mặt bằng, mặt cắt, mặt đứng điển hình.
5. Về sắp xếp lại các ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình:
Việc sắp xếp, tổ chức và hoạt động của các ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình đã được quy định tại Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, hướng dẫn tại Thông tư số 02/2007/TT-BXD và được giải thích rõ hơn tại văn bản số 1394/BXD-PC ngày 28/6/2007 của Bộ Xây dựng (xin gửi bản sao kèm theo văn bản này). Sở Xây dựng cần nghiên cứu các quy định này để tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh triển khai thực hiện theo nguyên tắc ban quản lý dự án do chủ đầu tư thành lập và thực hiện một số nhiệm vụ do chủ đầu tư giao. Ban quản lý dự án không kiêm chức năng làm chủ đầu tư.
Hoạt động tư vấn quản lý dự án là loại hình dịch vụ kinh doanh có điều kiện đòi hỏi phải có nghề nghiệp và kinh nghiệm. Do đó các tổ chức tư vấn quản lý dự án phải được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Các chi phí cho quản lý dự án được tính trong chi phí tổng mức đầu tư của từng dự án. Vì vậy, việc thành lập các Trung tâm tư vấn quản lý dự án hoạt động như đơn vị sự nghiệp có thu khi chưa có dự án và chưa xác định được chủ đầu tư là không phù hợp với các quy định hiện hành.
6. Về quy định đối với các chức danh giám đốc tư vấn quản lý dự án, chỉ huy trưởng công trường, giám sát thi công xây dựng quy định tại khoản 4 điều 48 của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP:
Việc quy định các chức danh nêu trên không được đảm nhận quá một công việc trong cùng một thời gian là nhằm đảm bảo quản lý chất lượng công trình xây dựng cũng như quản lý chặt chẽ các hoạt động khác trên công trường. Tuy nhiên, do đặc thù ở các địa phương có số lượng công trình nhỏ tương đối nhiều lại nằm trải trên các địa bàn nên không đủ lực lượng để thực hiện công việc theo quy định.
Để tháo gỡ vướng mắc và tạo điều kiện cho các khu vực thiếu người có đủ điều kiện năng lực theo quy định, thì tuỳ thuộc vào tính chất của dự án và tình hình cụ thể về điều kiện năng lực của lực lượng tư vấn ở địa phương mà có thể linh hoạt áp dụng cho phép các cá nhân đảm nhận chức danh giám đốc tư vấn quản lý dự án, chỉ huy trưởng công trường, giám sát thi công xây dựng được thực hiện hơn một công việc trong cùng một thời gian cho một chủ đầu tư, nhưng đảm bảo nguyên tắc công việc phải được kiểm soát, nghiệm thu theo quy định, không làm gián đoạn thực hiện công việc theo tiến độ; đồng thời phải chịu trách nhịêm về chất lượng, tiến độ của công trình.
7. Về Thanh tra xây dựng:
Trong quá trình thực hiện Thông tư liên tịch số 10/2005/TTLT/BXD-BNV ngày 22/6/2005 của Bộ Xây dựng và Bộ Nội vụ hướng dẫn về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và biên chế của Thanh tra xây dựng ở địa phương, các địa phương còn có những khó khăn, vướng mắc, những cách hiểu không thống nhất trong việc tổ chức lại lực lượng Thanh tra Xây dựng của địa phương mình. Bộ Xây dựng hướng dẫn cụ thể như sau:
6.1. Về kiện toàn, sắp xếp hệ thống tổ chức Thanh tra Xây dựng:
Các Sở Xây dựng dựa vào hoàn cảnh kinh tế xã hội của địa phương, tình hình đầu tư xây dựng, thực trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động xây dựng... để lập đề án thành lập Thanh tra chuyên ngành xây dựng trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Nội dung của Đề án thành lập Thanh tra chuyên ngành xây dựng phải đầy đủ, chi tiết, đảm bảo tính thuyết phục cao và phải có các nội dung cơ bản sau:
Cơ sở pháp lý: Nêu đầy đủ các căn cứ pháp lý thành lập Thanh tra Xây dựng địa phương.
Nêu rõ vị trí, chức năng của Thanh tra xây dựng là cơ quan thuộc Sở Xây dựng, có trách nhiệm giúp giám đốc Sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.