Công văn 1723/TCHQ-KTTT về chính sách thuế hàng quà biếu, tặng do Tổng cục Hải quan ban hành

Số hiệu 1723/TCHQ-KTTT
Ngày ban hành 03/05/2001
Ngày có hiệu lực 03/05/2001
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Tổng cục Hải quan
Người ký Lê Mạnh Hùng
Lĩnh vực Thuế - Phí - Lệ Phí

BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC HẢI QUAN
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1723/TCHQ-KTTT
V/v: Chính sách thuế hàng quà biếu, tặng

Hà Nội, ngày 3 tháng 5 năm 2001

 

Kính gửi: Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế)

Qua quá trình thực hiện chính sách thuế đối với quà biếu, tặng của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho cá nhân người Việt Nam và ngược lại theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cơ quan Hải quan thấy có một số vướng mắc. Các nội dung vướng mắc này cũng đã được đưa ra thảo luận, thống nhất tại các cuộc họp liên Bộ, ngành (Bộ Tài chính - Tổng cục Hải quan, Hải quan Hà Nội - Tổng cục Bưu điện) ngày 19/2/2001. Theo đó, Tổng cục Hải quan có ý kiến chính thức như sau:

1/ Về đối tượng con người được áp dụng chính sách:

Theo quy định của Thông tư số 172/1998/TT-BTC ngày 22/12/1998 thì đối với hàng quà biếu, tặng của tổ chức, cá nhân Việt Nam cho cá nhân người nước ngoài và của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho cá nhân người Việt Nam được xét miễn thuế cho mỗi cá nhân với lô hàng có giá trị không quá 100 USD. Như vậy:

+ Các khái niệm “cá nhân nước ngoài” và “cá nhân người nước ngoài” có phải là người có quốc tịch nước ngoài hay không? Theo quy định của pháp luật Việt Nam về quốc tịch thì người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam. Nếu như vậy, cơ quan Hải quan không đủ cơ sở xác định quốc tịch của người gửi quà biếu từ nước ngoài. Để xác định quốc tịch người gửi quà biếu, Bộ Tài chính cần quy định rõ thủ tục hồ sơ xác định quốc tịch nước ngoài như thế nào?

Tổng cục Hải quan đề nghị: trường hợp không có khả năng xác định quốc tịch người gửi thì nên quy định đối tượng áp dụng là quà của tổ chức, cá nhân từ nước ngoài gửi về cho tổ chức, cá nhân ở Việt Nam.

2/ Về thủ tục xét miễn thuế:

Trên cơ sở bộ hồ sơ xét miễn thuế đã được quy định trong Thông tư số 172/1998/TT-BTC cơ quan Hải quan ra quyết định giải quyết xét miễn thuế. Bộ hồ sơ cũng như thủ tục ra quyết định giải quyết xét miễn thuế theo quy định trên không khả thi, gây phiền hà, đặc biệt đối với trường hợp lô hàng có trị giá nhỏ (chẳng hạn: trị giá dưới 50 USD). Bởi, trong bộ hồ sơ quy định thì có loại theo quy định hiện hành về việc cấp giấy phép thì đã bị bãi bỏ, còn công văn đề nghị xét miễn thuế và thông báo hay quyết định tặng hàng thì rườm rà, gây phiên hà. Đề nghị Bộ Tài chính xem xét, quy định hồ sơ xét miễn thuế đơn giản, có tính khả thi và hiệu quả.

3/ Về nguyên tắc xác định trị giá lô hàng để xét miễn thuế:

Bộ Tài chính chưa có quy định nguyên tắc xác định trị giá hàng quà biếu, tặng để làm cơ sở xét miễn thuế.

4/ Về vấn đề xử lý thuế trong trường hợp lô hàng có giá trị trên 100 USD:

Căn cứ Điều 15 - Nghị định số 16/1999/NĐ-CP ngày 27/3/1999 của Chính phủ thì trường hợp hàng hóa XNK theo đường Bưu điện nếu vượt quá tiêu chuẩn quy định miễn thuế thì phải nộp thuế cho phần vượt. Trong khi đó, Điềm 4 - Mục II - Phần D - Thông tư số 172/1998/TT-BTC lại quy định mọi lô hàng quà biếu, tặng nếu vượt định mức miễn thuế 100 USD thì phải nộp thuế cho toàn bộ lô hàng. Đề nghị Bộ Tài chính có hướng giải quyết cụ thể: sửa đổi Thông tư số 172/1998/TT-BTC hoặc kiến nghị sửa đổi Nghị định số 16/1999/NĐ-CP để khắc phục mâu thuẫn nêu trên. Theo quan điểm của Tổng cục Hải quan, về nguyên tắc thì nếu lô hàng quà biếu, tặng vượt định mức miễn thuế thì phải nộp thuế cho phần vượt. Tuy nhiên, bên cạnh đó có một số trường hợp nếu áp dụng nguyên tắc này thì không hợp lý hoặc khó thực hiện, chẳng hạn: 01 lô hàng quà biếu, tặng gồm nhiều mặt hàng, thuế suất khác nhau, vậy tính thuế phần vượt theo thuế suất mặt hàng nào; 01 lô hàng quà biếu, tặng chỉ vượt ít so với định mức miễn thuế mà tính thuế phần vượt thì số thuế phải nộp có thể rất nhỏ, không đáng kể... Đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, có quy định hợp lý.

5/ Về vấn đề hoàn thuế, lệ phí trong trường hợp cơ quan Bưu điện ứng trước nộp thuế, lệ phí mà người nhận phải nộp nhưng sau đó lại không phát được đến người nhận, cơ quan Bưu điện làm thủ tục tái xuất.

Bộ Tài chính chưa có hướng dẫn về vấn đề này, gây vướng mắc cho hoạt động của cơ quan Bưu điện và Hải quan.

6/ Hệ thống văn bản quy định chính sách thuế cho đối tượng này không tập trung, gây khó khăn cho người thực hiện: trong cả văn bản quy phạm pháp luật thuế XNK, thuế GTGT đều có quy định, thêm nữa lại dẫn chiếu đến văn bản đã ban hành từ rất lâu, nhiều điểm không còn phù hợp (Thông tư số 28 TC/TCT ngày 17/7/1992). Đề nghị Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể trong một văn bản và bao quát đủ các loại thuế áp dụng.

7/ Về việc xét miễn thuế trong trường hợp 1 lô hàng được tặng cho nhiều người (mỗi cá nhân được miễn thuế trong phạm vi 100 USD và tổng trị giá lô hàng cũng không vượt quá 1.000 USD): đề nghị Bộ Tài chính xem xét mục đích, tính thực tế của việc biếu, tặng để cân nhắc có nên giữ quy định này hay không? (theo Tổng cục Hải quan việc tặng cho nhiều người ít xảy ra, duy trì quy định này dễ tạo điều kiện gian lận).

8/ Trường hợp hàng quà biếu, tặng do các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận vận tải đảm nhận vận chuyển, làm thủ tục Hải quan: Thông tư số 172/1998/TT-BTC của Bộ Tài chính chưa có quy định cụ thể thủ tục hồ sơ xét miễn thuế trường hợp này.

Từ những tồn tại nêu trên, Tổng cục Hải quan đền nghị Bộ Tài chính xem xét, sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn tập trung về chính sách thuế đối với loại hình quà biếu, tặng xuất khẩu, nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của cơ quan Hải quan, Bưu điện và đảm bảo lợi ích của người dân.

 

 

KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC HẢI QUAN
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG




Lê Mạnh Hùng