Chỉ thị 636/CT-TTg năm 2009 thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các biện pháp thi hành luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 636/CT-TTg |
Ngày ban hành | 20/05/2009 |
Ngày có hiệu lực | 20/05/2009 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Thủ tướng Chính phủ |
Người ký | Nguyễn Tấn Dũng |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 636/CT-TTg |
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2009 |
VỀ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ CÁC BIỆN PHÁP THI HÀNH LUẬT
Trong những năm qua, công tác xây dựng pháp luật của Chính phủ đã góp phần tích cực trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật của một số Bộ, ngành vẫn còn nhiều yếu kém: việc xây dựng và thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa thật sự có hiệu quả; quá trình soạn thảo luật, pháp lệnh thiếu sự định hướng về chính sách, dẫn đến lúng túng và gây lãng phí các nguồn lực; trách nhiệm của các Bộ, ngành chủ trì và tham gia soạn thảo chưa cao; chất lượng một số dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ (sau đây gọi là dự án, dự thảo) chưa bảo đảm, còn thiếu tính khả thi, chậm đi vào cuộc sống; quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự thu hút sự tham gia của nhân dân.
Khắc phục những bất cập nêu trên, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 6 năm 2008, Nghị định số 24/2009/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2009 Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sau đây gọi là Nghị định quy định biện pháp thi hành Luật) đã đổi mới một bước quy trình luật pháp, lập quy nhằm nâng cao chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật.
Để thực hiện các mục tiêu đổi mới và yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định quy định biện pháp thi hành Luật, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm:
a) Tổ chức tốt việc quán triệt tinh thần và nội dung các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định quy định biện pháp thi hành Luật bằng các hình thức, biện pháp phù hợp đối với cán bộ, công chức trong Bộ, ngành;
b) Xác định công tác lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu trong chương trình công tác của Bộ, ngành mình, từ đó, tập trung thích đáng các nguồn lực để nâng cao chất lượng đề xuất xây dựng dự án, dự thảo; chất lượng soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Kiên quyết đưa ra khỏi chương trình những dự án, dự thảo chưa cần thiết hoặc không bảo đảm chất lượng; mặt khác, cần bổ sung kịp thời vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật những dự án, dự thảo đáp ứng yêu cầu bức xúc của xã hội;
c) Trực tiếp chỉ đạo công tác soạn thảo văn bản và chịu trách nhiệm về chất lượng và thời gian trình các dự án, dự thảo. Các dự án, dự thảo phải thể hiện rõ và nhất quán tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Nếu có ý kiến khác nhau hoặc khó khăn, vướng mắc trong quá trình soạn thảo, phải kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng; soạn thảo, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc ban hành theo thẩm quyền kịp thời các văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh; chịu trách nhiệm ký ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của mình, việc ủy quyền ký chỉ thực hiện trong trường hợp vắng mặt;
d) Chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ, ngành đánh giá tác động của luật, pháp lệnh, nghị định sau khi văn bản có hiệu lực và đối chiếu với kết quả đánh giá tác động trong từng giai đoạn soạn thảo để xác định tính hợp lý, tính khả thi của các quy định để kịp thời kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền giải pháp nâng cao hiệu quả của văn bản hoặc hoàn thiện văn bản trong trường hợp cần thiết.
Khi đề nghị xây dựng, soạn thảo, ban hành dự án, dự thảo, cần quan tâm áp dụng có hiệu quả kỹ thuật dùng “một văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ nội dung nhiều văn bản” nhằm tiết kiệm các nguồn lực và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật;
đ) Tổ chức lập chuyên mục lấy ý kiến trên Trang thông tin điện tử của cơ quan mình để tiếp nhận ý kiến đóng góp của cơ quan, tổ chức, cá nhân về sáng kiến pháp luật, về dự án, dự thảo. Tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học và các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của dự án, dự thảo dưới các hình thức phù hợp, nhất là đối với những dự án, dự thảo liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của công dân và doanh nghiệp; ý kiến của các Bộ, ngành liên quan, đặc biệt là Bộ Tài chính về nguồn tài chính dự kiến, Bộ Nội vụ về nguồn nhân lực dự kiến;
e) Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong Bộ, ngành mình; trang bị các phương tiện kỹ thuật, công nghệ thông tin để đáp ứng kịp thời và hiệu quả các yêu cầu tiếp cận, nghiên cứu và xử lý thông tin nhằm phục vụ tốt công tác xây dựng, thẩm định, thẩm tra, rà soát, hệ thống hóa, pháp điển và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, ngành mình;
g) Kiện toàn tổ chức pháp chế và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật theo hướng chuyên nghiệp, đủ về biên chế và bảo đảm chất lượng cao. Căn cứ vào điều kiện thực tế của cơ quan mình, ít nhất mỗi năm một lần tổ chức bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng cần thiết cho đội ngũ cán bộ, công chức tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật. Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực phân tích chính sách, đánh giá tác động của dự án, dự thảo, kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cho cán bộ, công chức làm công tác pháp chế của Bộ, ngành;
h) Chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ, ngành tổ chức việc rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, để kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành; đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, hủy bỏ các văn bản, quy định trái pháp luật hoặc không còn hiệu lực thi hành.
Lập và gửi đăng Công báo danh mục các văn bản quy phạm pháp luật và quy định đã hết hiệu lực thi hành.
2. Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm:
a) Xây dựng hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản sau đây:
- Trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2003 về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật (quý III năm 2009);
- Quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (quý III năm 2009);
- Hướng dẫn về quy trình, phương pháp đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật (quý III năm 2009);
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch (quý III năm 2009);
- Hướng dẫn nghiệp vụ lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kỹ thuật soạn thảo, thẩm định, rà soát, hệ thống hóa, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá việc thi hành văn bản.
b) Đôn đốc, kiểm tra cơ quan chủ trì soạn thảo để bảo đảm tiến độ và chất lượng các dự án luật, pháp lệnh;
c) Thẩm định dự án, dự thảo văn bản đúng thời hạn và bảo đảm chất lượng;
d) Đề xuất việc tổ chức các phiên họp chuyên đề của Chính phủ để tập trung thảo luận một số dự án, dự thảo khi trình Chính phủ dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm;
đ) Chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ hướng dẫn định mức chi cho hoạt động lập dự kiến chương trình, soạn thảo, hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoạt động theo dõi chung về thi hành pháp luật được quy định tại Nghị định quy định biện pháp thi hành Luật (quý III năm 2009);