Chỉ thị 45/2009/CT-UBND về tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm do Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc ban hành
Số hiệu | 45/2009/CT-UBND |
Ngày ban hành | 17/08/2009 |
Ngày có hiệu lực | 27/08/2009 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Tỉnh Vĩnh Phúc |
Người ký | Nguyễn Ngọc Phi |
Lĩnh vực | Thương mại,Thể thao - Y tế |
UỶ
BAN NHÂN DÂN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 45/2009/CT-UBND |
Vĩnh Yên, ngày 17 tháng 08 năm 2009 |
VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM.
Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của con người, ảnh hưởng đến sự phát triển của nòi giống, đến phát triển kinh tế, xã hội, thương mại, du lịch và an sinh xã hội.
Trong những năm qua, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm, đặc biệt là công tác bảo đảm chất lượng VSATTP. UBND các cấp đã tích cực chỉ đạo, triển khai thực hiện pháp luật về quản lý chất lượng VSATTP; công tác phối hợp liên ngành được tăng cường và ngày càng có hiệu quả; hoạt động truyền thông, giáo dục và thanh tra, kiểm tra được đẩy mạnh, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các nhà sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng, góp phần bảo vệ sức khỏe nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo đảm chất lượng VSATTP còn nhiều tồn tại, bức xúc, cần được quan tâm. Những hậu quả của vấn đề này đối với cuộc sống cần được nhìn nhận và đánh giá đúng mức như đại dịch AIDS, ma túy và tai nạn giao thông. Trong những năm qua, có rất nhiều vấn đề sức khỏe liên quan đến VSATTP, như các dịch bệnh: Tiêu chảy cấp, Viêm đường hô hấp cấp (SARS), Cúm A (H5N1), Cúm A (Hưu); trẻ em suy dinh dưỡng, sỏi thận, sạn thận do sữa không đảm bảo chất lượng, sữa nhiễm Melamin; chưa kiểm soát và ngăn chặn triệt để tình trạng rau quả còn bị ô nhiễm hóa chất độc hại, thịt gia súc, gia cầm, thủy sản còn dư lượng kháng sinh, hóc môn; việc sử dụng các hóa chất, phụ gia không đúng quy định trong sản xuất, chế biến, bảo quản thực phẩm; việc kinh doanh thực phẩm tại các chợ, đường phố, khu du lịch, lễ hội, trường học . . . chưa được quản lý tốt; ngộ độc thực phẩm vẫn xảy ra tại các khu công nghiệp, bếp ăn tập thể và ngay cả bếp ăn gia đình. Tình trạng hàng thực phẩm giả, kém chất lượng, thực phẩm nhập lậu chưa được kiểm soát chặt chẽ, các vi phạm pháp luật chưa được xử lý nghiêm minh, kịp thời.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, các cơ quan, người sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng còn chưa đầy đủ, sự chỉ đạo thiếu kiên quyết; bộ máy tổ chức quản lý chuyên ngành về VSATTP còn chưa hoàn thiện, có nhiều đầu mối tham gia quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP nên phân công trách nhiệm ở một số công đoạn còn chồng chéo; việc thanh tra, kiểm tra còn chưa thường xuyên kịp thời; việc xử phạt chưa kiên quyết, chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa; vai trò của chính quyền cơ sở trong quản lý chất lượng VSATTP còn chưa được coi trọng đúng mức; đầu tư cho công tác quản lý chất lượng VSATTP còn thiếu, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ kiểm tra nhà nước về chất lượng VSATTP còn thiếu và lạc hậu; ngân sách quản lý chất lượng VSATTP chỉ đáp ứng một phần nhỏ yêu cầu nhiệm vụ; công tác kiểm soát, cảnh báo nguy cơ ô nhiễm thực phẩm, ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm chưa được chú trọng đúng mức.
Để khắc phục tình trạng nêu trên, nhằm đảm bảo thực hiện tốt chính sách pháp luật về VSATTP trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh yêu cầu:
1. Các cấp
các ngành tập trung thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ sau:
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các cấp chính quyền; gắn kết trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
- VSATTP là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, các cấp, các ngành trong lãnh đạo chỉ đạo, triển khai thực hiện cần có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn; trước mắt công tác này phải được triển khai quyết liệt, đồng bộ ở các cấp các ngành.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, phổ biến kiến thức và pháp luật về VSATTP, chú trọng giáo dục trách nhiệm và đạo đức kinh doanh của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm; giáo dục người dân không chấp nhận và sử dụng thực phẩm không đam bảo chất lượng VSATTP.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh đủ sức răn đe những vi phạm pháp luật về VSATTP, tạo bước đột phá mạnh mẽ trong quản lý chất lượng VSATTP; đẩy mạnh hoạt động phối hợp giữa các cấp, các ngành, các lực lượng thanh tra.
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả Kế hoạch số 2660/KH-UBND ngày 30/7/2007 của UBND tỉnh thực hiện Chỉ thị số 06/2007/CT-TTg ngày 23/03/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai các biện pháp cấp bách đảm bảo VSATTP.
- Tăng cường năng lực và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về VSATTP theo hướng kiểm soát theo nguy cơ ô nhiễm trong toàn bộ chuỗi cung cấp thực phẩm.
- Đẩy mạnh xã hội hóa công tác quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm; phát huy vai trò của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, xã hội-nghề nghiệp, các tổ chức đoàn thể trong việc tham gia bảo đảm chất lượng VSATTP.
- Bảo đảm cấp đủ ngân sách, nhân lực và trang thiết bị để đáp ứng cho hoạt động quản lý nhà nước về VSATTP ở các cấp.
- Chủ trì cùng các sở, ngành liên quan thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Ban chỉ đạo liên ngành công tác bảo đảm chất lượng VSATTP; chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc các sở, ngành, địa phương thực hiện có hiệu quả công tác bảo đảm chất lượng VSATTP.
- Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quản lý chất lượng VSATTP còn chồng chéo, mâu thuẫn, không còn phù hợp hoặc còn thiếu để quyết định việc sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc trình UBND tỉnh quyết định.
- Chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ sớm kiện toàn Chi Cục an toàn vệ sinh thực phẩm, bố trí đủ cán bộ làm công tác ATVSTP theo tinh thần Thông tư liên tịch số 03/2008/TTLT-BYT-BNV ngày 25/4/2008 của Bộ Y tế và Bộ Nội vụ và Kết luận số 43-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về 3 năm thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị. Thành lập đội ngũ thanh tra chuyên ngành VSATTP các cấp.
- Phối hợp với Sở Thông tin - Truyền thông, các sở, ngành liên quan, các cơ quan thông tin đại chúng trên địa bàn tỉnh để xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức triển khai công tác thông tin, giáo dục truyền thông về VSATTP phù hợp với từng đối tượng; chú trọng giáo dục đạo đức, trách nhiệm của người sản xuất kinh doanh thực phẩm, ý thức chỉ chấp nhận và sử dụng thực phẩm bảo đảm chất lượng VSATTP của người tiêu dùng; giám sát chặt chẽ hoạt động thông tin, quảng cáo thực phẩm; kịp thời phản hồi những thông tin sai lệch; xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm những quy định của pháp luật về thông tin, quảng cao.
Thực hiện tốt công tác phối hợp liên ngành trong quản lý nhà nước về VSATTP, đặc biệt ở những khâu đan xen giữa các công đoạn trong chuỗi thực phẩm; tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về VSATTP; kiểm soát ô nhiễm vi sinh vật và tồn dư hóa chất trong thực phẩm; xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật về VSATTP.
Chủ trì phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ và các sở, ngành liên quan tổ chức tốt công tác phân tích, dự báo nguy cơ, phòng chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm; xây dựng và tăng cường năng lực cho Trung tâm kiểm nghiệm thuộc Chi Cục ATVSTP, các Trung tâm ATVSTP ở tuyến huyện.
- Phối hợp với Sở Nội vụ rà soát, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của 03 đơn vị: Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Trung tâm Y tế Dự phòng, Trung tâm Kiểm nghiệm Dược phẩm, mỹ phẩm và thực phẩm.
- Chỉ đạo việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh ATTP theo quy định của pháp luật cho tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, các khách sạn, nhà hàng, bếp ăn tập thể; giám sát, kiểm tra, chấn chỉnh, kiên quyết không để các cơ sở không đủ điều kiện VSATTP sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
- Đào tạo, nâng cao năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chất lượng VSATTP từ tỉnh đến cơ sở, chú trọng cán bộ cấp huyện, xã.
3. Sở Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn:
- Xây dựng và phát triển các vùng nguyên liệu sản xuất nông sản, thực phẩm an toàn; khuyến khích chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng theo hướng sản xuất lớn, gắn với việc phát triển thị trường hàng hóa nông sản an toàn.