Chỉ thị 29-TTg năm 1980 về tổ chức tốt công tác cung ứng vật tư, hàng hoá gắn liền với việc thu mua nông sản, lâm sản, hải sản, đẩy mạnh việc thi hành chế độ hợp đồng kinh tế hai chiều do Thủ tướng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 29-TTg |
Ngày ban hành | 21/01/1980 |
Ngày có hiệu lực | 05/02/1980 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Thủ tướng Chính phủ |
Người ký | Lê Thanh Nghị |
Lĩnh vực | Thương mại |
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 29-TTg |
Hà Nội, ngày 21 tháng 1 năm 1980 |
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TỔ CHỨC TỐT CÔNG TÁC CUNG ỨNG VẬT TƯ, HÀNG HOÁ GẮN LIỀN VỚI VIỆC THU MUA NÔNG SẢN, LÂM SẢN, HẢI SẢN, ĐẨY MẠNH VIỆC THI HÀNH CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNGKINH TẾ HAI CHIỀU
Chấp hành Chỉ thị số 525-TTg ngày 7 tháng 11 năm 1978 của Thủ tướng Chính phủ, trong năm 1979 một số ngành và địa phương đã có cố gắng chỉ đạo và tổ chức mở rộng thực hiện Hợp đồng kinh tế hai chiều đạt kết quả tốt. Ở những nơi làm tốt đã có tác dụng rõ rệt phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm Nhà nước nắm nguồn hàng chắc hơn, nhiều hơn, đồng thời góp phần cải tiến công tác kế hoạch hoá ở cơ sở và trên địa bàn huyện.
Tuy nhiên, kết quả thực hiện trong cả nước nhìn chung còn bị hạn chế và không đồng đều giữa các địa phương. Ở miền Bắc, một số tỉnh và nhiều huyện còn lúng túng trong việc chỉ đạo kí kết và thực hiện hợp đồng. Ở miền Nam, nhiều nơi chưa làm theo sự hướng dẫn của Trung ương, phần lớn còn là hình thức, kí rồi không thực hiện được, tác dụng phục vụ sản xuất không rõ, kết quả thu mua được ít. Ở nhiều địa phương, vật tư, hàng hoá của Nhà nước đưa về nông thôn không được quản lí chặt chẽ, bị mất mát, tham ô, hoặc dùng để móc ngoặc khá nhiều; khối lượng sản phẩm thu mua được không tương ứng với số vật tư, hàng hoá đưa ra trao đổi hai chiều.
Sang năm 1980, để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và trên cơ sở đó nắm nguồn hàng trong tay Nhà nước nhiều hơn, đi đôi với việc thực hiện chính sách ổn định nghĩa vụ cung cấp nông sản cho Nhà nước, đẩy mạnh công tác thu thuế nông nghiệp và thu nợ bằng hiện vật, cần phải làm tốt việc cung ứng vật tư, hàng hoá gắn liền với thu mua nông sản, lâm sản, hải sản; đặc biệt là phải mở rộng việc thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế hai chiều như đã nêu rõ trong quyết định tạm thời số 65-CP ngày 23 tháng 3 năm 1978 của Hội đồng Chính phủ và Chỉ thị số 525-TTg ngày 7 tháng 11 năm 1978 của Thủ tướng Chính phủ.
Để làm tốt việc đó, các ngành và các địa phương cần nắm vững và tổ chức thực hiện tốt các công tác cụ thể sau đây:
1. Về yêu cầu và phương thức trao đổi hàng hoá hai chiều: Việc cung ứng vật tư, hàng hoá đối với nông thôn phải bảo đảm các yêu cầu dưới đây:
- Phục vụ và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, đồng thời phục vụ đời sống của người lao động ở nông thôn;
- Gắn liền với việc thu mua nông sản, hải sản, lâm sản; nhất thiết phải bảo đảm cho được khối lượng sản phẩm thu mua tương ứng với khối lượng vật tư hàng hoá trao đổi hai chiều.
Xuất phát từ yêu cầu đó, phương thức trao đổi hai chiều được quy định như sau:
- Nhà nước không cung ứng vật tư, hàng hoá theo lối bình quân, mang tính chất bao cấp như trước, mà theo nguyên tắc trao đổi hai chiều. Địa phương nào, đơn vị nào sản xuất tốt, có nhiều sản phẩm hàng hoá bán cho Nhà nước sẽ được phân phối nhiều hơn địa phương khác, đơn vị khác (trừ những vùng đặc biệt khó khăn, Nhà nước cần giúp đỡ).
- Việc trao đổi hai chiều được tính theo tỷ lệ tương ứng về hiện vật (từng loại vật tư, hàng hoá Nhà nước bán ra phải thu mua được bao nhiêu khối lượng sản phẩm của nông dân, ngư dân). Về mặt thanh toán bằng giá trị thì phần trao đổi hai chiều trong nghĩa vụ và hợp đồng theo giá chỉ đạo của Nhà nước; nếu trao đổi ngoài nghĩa vụ và hợp đồng thì theo giá thoả thuận (có thể cả hai chiều đều theo giá chỉ đạo hoặc cao hơn giá chỉ đạo nhưng thấp hơn giá thị trường tự do).
- Tích cực mở rộng việc kí kết và thực hiện hợp đồng kinh tế giữa Nhà nước và nông dân, ngư dân để cho việc trao đổi hai chiều được chủ động, bảo đảm thực hiện tốt kế hoạch Nhà nước, nhưng không gò ép, không hạn chế việc trao đổi trực tiếp, không qua hợp đồng.
Cần làm cho các ngành, các cấp, cán bộ, đảng viên ở cơ sở và người sản xuất hiểu rõ việc trao đổi hai chiều và chế độ hợp đồng kinh tế hai chiều là biện pháp cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa chính trị và kinh tế rất quan trọng, một chế độ quản lí kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhằm thắt chặt quan hệ giữa các tổ chức kinh tế Nhà nước với khu vực sản xuất tập thể và cá thể ở nông thôn, giữa công nghiệp với nông nghiệp, góp phần đẩy mạnh cuộc cách mạng ở nông thôn. Phải nắm vững yêu cầu bảo đảm sự nhất trí giữa lợi ích của Nhà nước và của nông dân trong việc trao đổi hàng hoá, thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế hai chiều. Chỉ nhìn một mặt, nhấn mạnh một phía thì sẽ dẫn đến chủ trương và hành động không đúng, gây tổn hại cho lợi ích của cả Nhà nước và nông dân.
Theo tinh thần đó, các cơ quan quản lý và các tổ chức kinh tế của Nhà nước phải đi sâu, đi sát điều tra nghiên cứu nắm vững khả năng và yêu cầu thực tế về vật tư, hàng hoá của các đơn vị và người sản xuất ở từng vùng, trong từng mùa vụ. Phải tích cực chuẩn bị các nguồn vật tư hàng hoá cần thiết với mức cố gắng cao nhất (kể cả hàng của Trung ương và hàng của địa phương) để đưa vào hợp đồng hai chiều, tổ chức tốt việc cung ứng cho người sản xuất kịp thời vụ theo hợp đồng đã ký.
Về phía người sản xuất, được Nhà nước đầu tư giúp đỡ rất lớn về các điều kiện vật chất kỹ thuật, được cung ứng vật tư, hàng hoá theo hợp đồng, phải phát huy tinh thần yêu nước, tinh thành làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất, đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế, trả nợ và bán sản phẩm theo hợp đồng hai chiều đã ký với Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2. Về các loại vật tư, hàng hoá Nhà nước trao đổi với nông dân, ngư dân:
Nhà nước cung ứng cho người sản xuất các loại tư liệu sản xuất chủ yếu theo yêu cầu của từng ngành, nghề (nông nghiệp, nghề cá, nghề muối, nghề rừng); chất đốt và các loại vật liệu xây dựng như gỗ, xi măng, gạch, ngói, chất lợp và hàng tiêu dùng thiết yếu như đã nêu trong Quyết định số 65-CP.
Về tư liệu sản xuất nông nghiệp (bao gồm các loại phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, giống cây và con, máy móc nhỏ và phụ tùng, công cụ cải tiến, v.v...), ngoài phần dành cho nhu cầu của các nông trường, trạm trại quốc doanh, Nhà nước dành phần lớn các loại phân hoá học (đạm, lân các loại, ka li, vôi) để cung ứng theo hợp đồng hai chiều. Ngoài ra, dành một số phân đạm, gỗ, xi măng và một số hàng hoá khác để cung ứng cho những đơn vị và người sản xuất bán thêm ngoài kế hoạch cho Nhà nước theo giá cả hay tể lệ trao đổi do hai bên thoả thuận.
Về xăng, dầu dùng trong nông nghiệp, thuỷ lợi, Nhà nước phân phối chủ yếu cho các trạm hay tổ hợp máy kéo và máy nông nghiệp, các trạm bơm, các cơ sở xay xát, chế biến (của quốc doanh và tập thể) để ký hợp đồng cung ứng dịch vụ cơ giới cho các đơn vị sản xuất nông nghiệp, lấy công bằng hiện vật (lúa hay nông sản khác). Chỉ cung ứng trực tiếp một phần cho đơn vị và người sản xuất có xe, máy riêng dùng trong sản xuất, chế biến và vận chuyển sản phẩm.
Về hàng tiêu dùng: các loại hàng bán ra ở nông thôn đều đưa vào hợp đồng hai chiều, trừ những loại sau đây:
- Thuốc bệnh, giấy, vở, bút mực cho học sinh, muối (nơi nào quần chúng yêu cầu mới đưa vào hợp đồng);
- Một số loại hàng thông thường vẫn bán tự do ở các cửa hàng quốc doanh và hợp tác xã mua bán;
- Những hàng hoá dành để bán cho một số đối tượng theo chính sách, chế độ (thương binh, gia đình liệt sĩ, cán bộ về hưu...)
Dựa vào phương hướng chung trên đây, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cùng các Bộ có liên quan (Nông nghiệp, Vật tư, Lương thực và thực phẩm, Nội thương, Ngoại thương, Hải sản, Lâm nghiệp, Y tế) xác định cụ thể danh mục vật tư, hàng hoá của Nhà nước dùng để trao đổi hai chiều và tỷ lệ trao đổi tương ứng về hiện vật giữa từng loại vật tư, hàng hoá Nhà nước cứng ứng vào từng loại nông sản, lâm sản, hải sản thu mua. Việc này phải làm xong và trình Chính phủ trong tháng 1 năm 1980.
Trong chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước phân phối vật tư, hàng hoá năm 1980 cho từng tỉnh, thành phố, cần phải tách riêng khối lượng vật tư, hàng hoá để trao đổi hai chiều, ăn khớp với các chỉ tiêu sản xuất và huy động từng loại nông sản, lâm sản, hải sản, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố dựa vào chỉ tiêu vật tư, hàng hoá được Trung ương phân phối, cộng với nguồn khai thác và sản xuất ở địa phương để phân bổ chỉ tiêu cho các huyện, hướng dẫn cụ thể cho Uỷ ban nhân dân các huyện chỉ đạo chặt chẽ việc phân phối theo hợp đồng hai chiều, chống mọi hiện tượng lợi dụng, tham ô, móc ngoặc, hoặc để mất mát trong các khâu tiếp nhận, vận chuyển, bảo quản, phân phối.
Các địa phương được Trung ương phân phối vật tư, hàng hoá theo kế hoạch, phải bảo đảm đẩy mạnh sản xuất, huy động và giao nộp đủ sản phẩm về cho Trung ương theo chỉ tiêu kế hoạch đã giao.
Các quỹ vật tư, hàng hoá mà các ngành Trung ương và tỉnh đưa xuống nông thôn cần được thống nhất quản lý vào Uỷ ban nhân dân huyện để chỉ đạo các tổ chức cung ứng ở huyện, phân phối theo đúng kế hoạch và chính sách, thực hiện tốt các hợp đồng hai chiều đã ký với người sản xuất, gắn chặt với thu mua nắm nguồn hàng. Uỷ ban nhân dân huyện phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và trước nhân dân về việc trao đổi hàng hoá, thực hiện hợp đồng kinh tế hai chiều, bảo đảm thu mua được khối lượng nông sản, hải sản, lâm sản tương ứng với khối lượng vật tư, hàng hoá mà Nhà nước bán ra. Sự tương ứng này tính bằng hiện vật theo tỷ lệ do Chính phủ quy định.