Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Chỉ thị 18-CT/TN/NH năm 1969 về công tác cho vay đối với hợp tác xã mua bán trong tình hình mới do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành

Số hiệu 18-CT/TN/NH
Ngày ban hành 08/10/1969
Ngày có hiệu lực 23/10/1969
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Ngân hàng Nhà nước
Người ký Đinh Văn Bảy
Lĩnh vực Tiền tệ - Ngân hàng

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 18-CT/TN/NH

Hà Nội, ngày 08 tháng 10 năm 1969 

 

CHỈ THỊ

VỀ CÔNG TÁC CHO VAY ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ MUA BÁN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Qua kiểm tra việc chấp hành biện pháp cho vay ở một số tỉnh và kết hợp với việc nghiên cứu báo cáo của các chi nhánh, chi điếm về tình hình hoạt động của hợp tác xã mua bán, ngân hàng trung ương thấy nổi lên mấy điểm:

- Về kinh doanh của hợp tác xã thì không đúng phương hướng, nhất là trong khâu tự kinh doanh, phổ biến là kinh doanh đường dài, chay theo lợi nhuận, chưa chấp hành đúng chính sách giá cả chỉ đạo của Nhà nước nên không có tác dụng lãnh đạo thị trường và giá cả;

- Đối với hàng đại lý bán thì không nghiên cứu nhu cầu của quần chúng và khả năng tiêu thụ nên khi đi nhận hàng thì Mậu dịch giao hàng gì cũng lấy, bao nhiêu cũng nhận, dẫn đến tồn kho cao, hàng đọng nhiều, có xã giá trị tồn kho gấp hai, ba lần doanh số bán hàng tháng và hàng đọng chiếm 50 – 60% tồn kho;

- Về tài vụ thì công tác quản lý vốn làm không tốt, thanh toán tiền hàng không kịp thời, mua bán chịu phổ biến, sử dụng vốn bừa bãi không đúng nguyên tắc, chế độ, dẫn đến lợi dụng, tham ô, mất mát nghiêm trọng, nhưng biện pháp xử lý, thu không tích cực, kịp thời. Do đó, vốn hợp tác xã bị mất dần, tài vụ bị đảo lộn;

- Các chi điếm ngân hàng và hợp tác xã tín dụng chấp hành thể lệ, biện pháp tín dụng không nghiêm chỉnh, buông lỏng khâu quản lý tín dụng nên chưa tác động kịp thời đến các đơn vị vay vốn; cho vay thì căn cứ vào yêu cầu của hợp tác xã không nghiên cứu tính toán, không đôn đốc đơn vị bán hàng để trả nợ nên dư nợ vay ngân hàng và hợp tác xã tín dụng tăng lên mức không cần thiết;

- Các chi nhánh trung tâm thiếu kiểm tra đôn đốc, chỉ đạo không kịp thời và nhạy bén.

Trong điều kiện hiện nay âm mưu chiến tranh phá hoại của địch đã bị thất bại, tình hình miền Bắc đã trở lại tương đối ổn đinh, giao thông vận tải thông suốt, vẫn chuyển hàng hoá thuận lợi hơn; phương thức phân phối hàng hóa đã có những thay đổi, nhiều mặt hàng được bán bình thường nên kinh doanh của hợp tác xã có điều kiện và khả năng tăng thêm chuyến hàng để giảm mức dự trữ không cần thiết.

Tình hình đó đòi hỏi ngân hàng phải có sự chuyển biến về công tác cho vay đối với hợp tác xã mua bán, cụ thể là phải tích cực giúp đỡ hợp tác xã mua bán tăng thêm tốc độ chu chuyển vốn, tăng thêm vòng quay hàng hoá nhằm phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân ở nông thôn và rút bớt mức dự trữ tồn kho xuống.

Mặt khác, để phát huy hơn nữa chức năng của tín dụng ngân hàng góp phần giúp đỡ hợp tác xã mua bán đẩy mạnh kinh doanh và củng cố tài vụ nhằm góp phần tăng cường quản lý kinh tế - tài chính, Ngân hàng Trung ương quyết định:

1. Xác định lại mức vốn tham gia của ngân hàng đối với hợp tác xã mua bán xã.

Sau khi nghiên cứu trên 3000 hợp tác xã vốn 26 tỉnh, thành thì thấy số hợp tác xã có vốn tự có tham gia hàng hóa từ 50% giá trị tồn kho trở lên đã có 35% số xã đạt, nếu căn cứ theo tình hình hiện nay điều chỉnh tăng thêm tốc độ vòng quay vốn, xác định lại mức dự trữ để tính toán nghiên cứu thì số xã có vốn tự có tham gia hàng hoá trên 50% giá trị tồn kho lên tới 70 – 75% số xã, do đó xét về điều kiện vay vốn trước đây quy định cho hợp tác xã phải có vốn tự có tham gia hàng hoá tối thiếu 10% giá trị tồn kho trong thể lệ tạm thời hợp tác xã tín dụng cho vay hợp tác xã mua bán ngày 18/10/1967 nay không phù hợp nữa, nên ngân hàng Trung ương quy định lại: hợp tác xã mua bán phải có vốn tự có tham gia hàng hoá tối thiểu 50% giá trị tồn kho.

2. Đẩy mạnh công tác thu hồi nợ đối với hợp tác xã mua bán xã.

Thu nợ đúng kỳ hạn là một nguyên tắc cơ bản của tín dụng xã hội chủ nghĩa, là một công tác thường xuyên của ngân hàng, nhưng nợ hợp tác xã mua bán nay thiếu vật tư bảo đảm phổ biến và rất nghiêm trọng nên các chi nhánh, chi điếm phải phân biệt các loại nợ để có kế hoạch và biện pháp tích cực thu hồi kịp thời, đúng đối tượng, kiên quyết tránh tình trạng để nợ dây dưa, khê đọng làm ành hưởng đến công tác quản lý vốn của ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và tài vụ hợp tác xã mua bán.

Nếu dự trữ quá cao thì phải đôn đốc hợp tác xã đẩy mạnh bán ra, hoặc bàn với Mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán huyện điều hòa bớt (nếu xét cần thiết) và đôn đốc nạp hết tiền bán hàng để thu nợ. Hợp tác xã không được tọa chi tiền bán hàng để chi tiêu ngoài phạm vi quy định của ngân hàng.

Đối với nợ quá hạn nếu hợp tác xã còn tiền mặt, tiền gửi thì ngân hàng hay hợp tác xã tín dụng  phải trao đổi với đơn vị nộp tiền mặt vào và trích tài khoản tiền gửi để thu nợ về. Trường hợp tiền mặt, tiều gửi không còn mà đang nằm trong các khoản tổn thất, mất mát, nợ nần tham ô, thiếu hụt tiền hàng hay trong tồn kho ứ đọng thì phải đôn đốc hợp tác xã tích cực giải quyết, xác minh và xử lý thu hồi các khoản tổn thất, mất mát... để lấy tiền trả nợ kịp thời. Ngân hàng hay hợp tác xã tín dụng phải căn cứ vào tình hình kinh doanh, vốn liếng của hợp tác xã mà tính toán khả năng trả nợ để định thời hạn trả và mức trả nợ từng định kỳ, từng tháng cho cụ thể.

Khi đã quá thời hạn đó mà hợp tác xã không thanh toán được thì phải tìm nguyên nhân để xử lý kịp thời, tùy tình hình cụ thể mà giải quyết hạn chế dần việc cho vay, hoặc đình chỉ cho vay.

Nhưng sau khi đình chỉ cho vay phải tiếp tục theo dõi, kiểm tra phát hiện các nguồn thu của hợp tác xã để thu nợ về, đồng thời phải có kế hoạch hướng dẫn giúp đỡ hợp tác xã củng cố lại công tác kinh doanh tài vụ để có điều kiện tiếp tục cho vay bình thường.

Để thực hiện được chủ trương trên, các chi nhánh, chi điếm phải thực hiện tốt mấy vấn đề sau đây:

A. Biện pháp tiến hành cho vay.

Để phù hợp với khả năng vốn liếng, trình độ quản lý kinh doanh từng vùng, từng địa phương, các chi nhánh, chi điếm phải phân ra loại xã để quy định thời gian chu chuyển vốn cho từng loại, đồng thời căn cứ vào doanh số bán ra mà tính toán mức dự trữ cho từng xã. Từ đó mà tính toán cho vay của ngân hàng hay hợp tác xã tín dụng, cụ thể là:

1. Xác định tốc độ vòng quay vốn: Để chiếu cố đến hoàn cảnh khó khăn của một số hợp tác xã về giao thông vận tải và điều kiện đi lại hiện nay, nên phân ra hai loại xã:

- Một loại xã có đường giao thông thuận lợi và ở gần đơn vị cung cấp hàng hoá (khoảng cách từ 5 đến 7 km trở xuống) (loại I);

- Một loại có khó khăn về giao thông vận tải và ở xa đơn vị cung cấp hàng hoá hơn (loại II).

Thời gian chu chuyển vốn của hợp tác xã cũng quy định cho từng loại xã, nhưng giữa đồng bằng và miền núi mức độ có thể khác nhau, nên:

 

Đồng bằng

Miền núi

- Thời gian chu chuyển vốn của số xã loai I khoảng trên dưới

20 ngày

24 ngày

- Thời gian chu chuyển vốn của số xã loại II khoảng trên dưới.

24 ngày

30 ngày

2. Định mức dự trữ và cơ cấu hàng tồn kho cho các xã:

[...]