BAN BÍ THƯ
TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 16-CT/TW
|
Hà Nội, ngày
05 tháng 10 năm 2002
|
CHỈ THỊ
VỀ TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG DÂN
QUÂN TỰ VỆ VÀ LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN TRONG HÌNH MỚI
Lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động
viên là bộ phận trong lực lượng vũ trang của Đảng. Xây dựng lực lượng dân quân
tự vệ và lực lượng dự bị động viên là nội dung quan trọng trong đường lối quân
sự của Đảng, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị.
Những năm qua, thực hiện Chỉ thị số 55-CT/TW,
ngày 22/9/1989 của Ban Bí thư (khóa VI), tổ chức đảng và chính quyền các cấp đã
có chuyển biến tích cực trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng tổng
hợp của lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên, góp phần tăng cường
hiệu lực quản lý của chính quyền, làm trong sạch địa bàn, đảm bảo an ninh chính
trị, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
Tuy nhiên, cấp ủy đảng, chính quyền ở một số địa
phương, cơ quan, đơn vị, chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, vị trí chiến lược của
hai lực lượng này và chưa đề cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các lực
lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới, gắn với
xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về
dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên chưa đồng bộ, còn bất cập so với thực
tiễn. Việc bảo đảm ngân sách thực hiện chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ,
quân nhân dự bị còn hạn chế. Nhìn chung chất lượng của lực lượng dân quân tự vệ
và dự bị động viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, hiệu quả hoạt
động chưa cao nhất là khi xảy ra tình hình phức tạp.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng tổng hợp của dân
quân tự vệ và quân nhân dự bị đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu quả của hệ thông chính trị ở cơ sở
xã, phường, thị trấn theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX),
Ban Bí thư yêu cầu cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành thực hiện tốt một số
nội dung chính sau đây:
1. Tăng cường sự lãnh đạo tập
trung thống nhất của cấp ủy đảng địa phương, cơ quan, đơn vị đối với lực lượng
dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên, gắn với việc kiện toàn và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở. Chú trọng nâng cao chất lượng dân quân tự
vệ, quân nhân dự bị, bảo đảm là lực lượng trung thành, tin cậy của đảng, Nhà nước
và nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống; nhất là ở các vùng trọng
điểm, địa bàn chiến lược như Tây nguyên, Tây nam bộ, Tây Bắc, biên giới, hải đảo
và những địa bàn có vấn đề phức tạp khác.
Cấp ủy cơ sở phải có Nghị quyết lãnh đạo chuyên
đề về công tác này, đề ra biện pháp thiết thực, tổ chức triển khai và kiểm tra
chặt chẽ việc thực hiện; lấy kết quả lãnh đạo xây dựng lực lượng để đánh giá kết
quả hoàn thành nhiệm vụ hằng năm của tổ chức đảng. Đề cao vai trò nòng cốt của
đảng viên trong dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên; đồng thời làm tốt
công tác phát triển đảng viên trong các lực lượng này.
2. Xây dựng lực lượng dân quân
tự vệ vững mạnh trước hết về chính trị, được tổ chức chặt chẽ, có số lượng,
biên chế, trang bị thích hợp với từng vùng, từng địa phương, phù hợp với cơ chế
quản lý kinh tế mới, thực sự là chỗ dựa, là công cụ tin cậy bảo vệ Đảng, chính
quyền ở cơ sở. Phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh cơ sở, bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, bộ đội biên phòng làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa
bình”, Bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội tại địa phương, cơ sở. Nghiên cứu, chỉ đạo từng bước xây dựng
phát triển lực lượng tự vệ ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
3. Thực hiện nghiêm túc và đầy
đủ các quy định của pháp luật về xây dựng và huy động lực lượng dự bị động
viên. Tổ chức xây dựng các đơn vị dự bị động viên có chất lượng toàn diện, chú
trọng nâng cao chất lượng về chính trị, không ngừng nâng cao trình độ sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu của quân nhân dự bị; quản lý và huấn luyện chặt chẽ, bảo
đảm vũ khí trang bị, vật chất hậu cần để sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ trong
mọi tình huống diễn ra trên địa bàn và kịp thời bổ sung cho lực lượng thường trực
của quân đội theo yêu cầu.
4. Kiện toàn Ban chỉ huy quân sự
xã, phường, thị trấn, cơ sở tự vệ đủ về số lượng, cán bộ có phẩm chất đạo đức
và chuyên môn giỏi. Xã đội trưởng phải là đảng viên, từng bước tăng tỷ lệ Xã đội
trưởng tham gia cấp ủy. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quân sự xã, phường,
thị trấn theo chương trình chuẩn quốc gia, làm tốt việc tạo nguồn cán bộ quân sự
lâu dài cho cơ sở. Ở những nơi còn thiếu cán bộ tại chỗ; chú trọng phát triển
cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ.
5. Nhà nước cần bố trí ngân
sách thích đáng để bảo đảm cho dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên huấn
luyện, hoạt động và thực hiện chế độ, chính sách đối với những người tham gia
hai lực lượng trên. Động viên các đoàn thể, các tổ chức kinh tế - xã hội và
nhân dân tự nguyện đóng góp để lập quỹ quốc phòng - an ninh ở cơ sở để hỗ trợ
thêm kinh phí cho công tác dân quân tự vệ và dự bị động viên.
6. Ban Tổ chức Trung ương phối
hợp với Đảng ủy Quân sự Trung ương và cấp ủy đảng các địa phương tiếp tục
nghiên cứu việc tổ chức xây dựng chi bộ, tổ đảng quân sự ở xã, phường, thị trấn.
7. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương và Bộ Văn hóa - Thông tin phối hợp với Đảng ủy Quân sự Trung ương chỉ đạo
cơ quan chức năng thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng
các lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên; giáo dục chính trị tư tưởng
cho dân quân tự vệ và quân nhân dự bị; kịp thời biểu dương gương người tốt, việc
tốt.
8. Tăng cường hiệu lực quản lý
nhà nước đối với lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên. Nghiên
cứu để sửa đổi, bổ sung pháp lệnh về dân quân tự vệ, pháp lệnh về lực lượng dự
bị động viên và các văn bản pháp luật liên quan cho phù hợp tình hình mới.
9. Đảng ủy Quân sự Trung ương
giúp Ban Bí thư theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc và định kỳ báo cáo Ban
Bí thư kết quả thực hiện chỉ thị này.
Các tỉnh ủy, thành ủy và tổ chức Đảng trực thuộc
Trung ương có trách nhiệm tổ chức thực hiện, kiểm tra việc chấp hành Chỉ thị
này; hằng năm báo cáo kết quả về Ban Bí thư (qua Đảng ủy Quân sự Trung ương).
Chỉ thị này được phổ biến, quán triệt đến chi bộ cơ sở.
HƯỚNG DẪN
THỰC HIỆN CHỈ THỊ SỐ 16/CT/TW NGÀY 05/10/2002 CỦA BAN BÍ THƯ
TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA IX VỀ TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG
DÂN QUÂN TỰ VỆ VÀ LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN TRONG TÌNH HÌNH MỚI
- Căn căn vào Chỉ thị số 16/CT/TW ngày 05 tháng
10 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về "Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ (DQTV) và lực lượng dự bị động
viên (DBĐV) trong tình hình mới".
Được sự ủy quyền của Ban Bí thư, Thường vụ Đảng ủy
quân sự Trung ương hướng dẫn thực hiện như sau:
I. Mục đích yêu cầu:
1. Nhằm triển khai thực hiện thống nhất và đạt
được hiệu quả cao ở tất cả các tổ chức đảng trong toàn quốc.
2. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách
nhiệm, năng lực của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo,
tổ chức thực hiện có quả về xây dựng, hoạt động của lực lượng DQTV và lực lượng
DBĐV, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong hình mới.
3. Cấp ủy các cấp phải xác định đây là một nhiệm
vụ quan trọng trong công tác lãnh đạo. Vì vậy cần có kế hoạch lãnh đạo và chỉ đạo
chặt chẽ việc triển khai thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư một cách nghiêm túc,
đồng bộ, kịp thời và có hiệu quả.
II. Nội dung tiến hành:
1. Về công tác lãnh đạo, chỉ
đạo.
a) Các Tỉnh ủy, Thành ủy, Ban cán sự Đảng, Đảng
Đoàn, Đảng ủy trực thuộc Trung ương, Đảng ủy các quân khu, căn cứ Chỉ thị của
Ban Bí thư và tình hình xây dựng, hoạt động của lực lượng DQTV, lực lượng DBĐV
trong thời gian qua để ra Nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo xây dựng, nâng cao
chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của 2 lực lượng này.
b) Đảng ủy các quân khu chỉ đạo Bộ Tham mưu, Cục
Chính trị, cơ quan quân sự địa phương các cấp, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của
mình tham mưu, giúp Đảng ủy quân khu, cấp ủy địa phương cùng cấp, xây dựng kế
hoạch và hướng dẫn triển khai thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư, nghị quyết
chuyên đề của đảng ủy Quân khu, cấp uỷ đảng địa phương các cấp.
c) Ban chỉ huy các đơn vị tự vệ, cán bộ chuyên
trách, kiêm nhiệm công tác quân sự ở các Bộ, ngành Trung ương và các cơ quan,
đơn vị, xí nghiệp, doanh nghiệp…tham mưu cho cấp ủy, Thủ trưởng cơ quan, giám đốc
các doanh nghiệp có văn bản lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện chỉ thị nêu
trên.
d) Hằng năm và từng thời kỳ, cấp ủy các cấp tổ
chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng hai lực
lượng này kịp thời có chủ trương, biện pháp khắc phục những hạn chế, khuyết điểm.
2. Tổ chức thực hiện:
2.1. Về xây dựng chi bộ, tổ đảng
quân sự ở xã, phường, thị trấn.
a) Để nâng cao tỷ lệ lãnh đạo trong lực lượng
DQTV, các địa phương cần quan tâm lựa chọn những đảng viên trong độ tuổi DQTV
có đủ điều kiện đưa vào lực lượng DQTV. Tích cực phát hiện và bồi dưỡng đoàn
viên ưu tú trong lực lượng DQTV và những quân nhân dự bị để phát triển đảng
viên. Phấn đấu đến năm 2005 các địa phương đạt tỷ lệ đảng viên trong DQTV từ
10% trở lên và từng bước nâng dần tỷ lệ lãnh đạo trong các đơn vị DBĐV.
b) Căn cứ vào hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung
ương, Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam hướng dẫn cơ quan chính trị
các cấp phối hợp với cấp ủy các địa phương tiếp tục nghiên cứu việc xây dựng
chi bộ, tổ đảng quân sự xã, phường, thị trấn, cụ thể:
+ Đối với những nơi đã xây dựng chi bộ, tổ đảng
quân sự hoặc chi bộ trung đội dân quân cơ động, cần tiếp tục nghiên cứu mô
hình, chức năng nhiệm vụ, phương thức lãnh đạo, hiệu quả hoạt động, rút kinh
nghiệm để chỉ dạo hoạt động có hiệu quả hơn.
+ Đối với những nơi chưa có tổ chức chi bộ, tổ đảng
quân sự hoặc chi bộ trung đội dân quân cơ động thì cần nghiên cứu để tổ chức
nhưng phải có bước đi thích hợp, tiến hành làm điểm, rút kinh nghiệm, chỉ đạo
nhân rộng
2.2. Về kiện toàn biên chế
cán bộ.
a) Đối với BCHQS xã, phường, thị trấn, đơn vị tự
vệ.
+ Cơ quan quân sự các cấp tham mưu cho cấp ủy v à
chính quyền thường xuyên kiện toàn Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn đủ
3 đồng chí: Chỉ huy trưởng, Chính trị viên do bí thư Đảng ủy (chi bộ) đảm nhiệm;
Chỉ huy phó chuyên trách. Chỉ huy trưởng, Chỉ huy phó phải là những đồng chí có
phẩm chất chính trị tốt, đã qua rèn luyện trong Quân đội, trong lao động sản xuất;
Chỉ huy trưởng nhất thiết phải là đảng v iên Đảng cộng sản Việt Nam, có đủ điều
kiện tham gia cấp ủy, thành viên Ủy ban nhân dân cùng cấp. Ở những nơi trọng điểm
có thể bố trí thêm 1 đồng chí Chỉ huy phó kiêm nhiệm để đáp ứng với yêu cầu,
nhiệm v ụ, chấm dứt tình trạng cán bộ quân sự xã, phường, thị trấn làm hợp đồng.
+ Thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW của Hội nghị
lần thứ 5 BCHTW (khóa IX) về đổi mới, nâng cao hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường và thị trấn; Các địa phương cần có quy hoạch cán bộ quân sự, lựa chọn
nguồn đào tạo để từ năm 2004 trở đi thực hiện đào tạo cán bộ quân sự theo
chương trình chuấn quốc gia, chú trọng tạo nguồn từ những quân nhân đã hoặc
đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.
+ Trong đào tạo bồi dưỡng cần chú ý đến cán bộ tại
chỗ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, tạo nguồn cán bộ cho cả kế cận và kế tiếp,
tạo được tính ổn định, không bị hẫng hụt.
b) Đối với cán bộ đơn vị DBĐV
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đơn vị DBĐV đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ bản, có biện pháp quản lý, đào tạo, bồi dưỡng từng bước
nâng tỷ lệ xếp đúng chuyên nghiệp quân sự đáp ứng yêu cầu biên chế.
+ Cơ quan, đơn vị các cấp phải xây dựng quy hoạch
và kế hoạch cụ thể bồi dưỡng nguồn để bổ sung cho đội ngũ sĩ quan dự bị, phấn đấu
đến năm 2005 cơ bản khắc phục được sự mất cân đối về nhóm ngành cán bộ, cơ cấu
sắp xếp vào các đơn vị DBĐV.
+ Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng cán bộ
đơn vị DBĐV, xây dựng đội ngũ cán bộ đơn vị DBĐV có phẩm chất chính trị, trình
độ, có năng lực công tác, đủ sức lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ,
đáp ứng yêu cầu động viên khi cần thiết.
2.1. Về xây dựng lực lượng.
a) Đối với DQTV.
+ Cấp ủy, chính quyền địa phương, thủ trưởng cơ
quan, đơn vị, giám đốc các doanh nghiệp… thường xuyên chỉ đạo Ban chỉ huy quân
sự thực hiện có nề nếp việc đăng ký công dân trong độ tuổi DQTV, thường xuyên
rà soát, củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng chính trị lực lượng DQTV, có số
lượng hợp lý, tổ chức biên chế chặt chẽ, thực hiện ở đâu có dân, có tổ chức đảng
và đảng viên ở đó phải tổ chức DQTV. Đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng
DQTV ở các vùng trọng điểm, địa bàn chiến lược như Tây nguyên, Tây bắc, Tây Nam
bộ và các địa bàn có những vấn đề phức tạp khác.
+ Việc tuyển chọn, kết nạp công dân vào lực lượng
DQTV phải thực hiện theo nguyên tắc cấp ủy lãnh đạo, chính quyền chỉ đạo điều
hành, cơ quan quân sự tham mưu. Quá trình tuyển chọn phải xem xét kỹ, nhất là về
phẩm chất chính trị, độ tin cậy. Nhất thiết không kết nạp vào DQTV những người
chưa nắm chắc nhân thân, lập trường tư tưởng không vững vàng, độ tin cậy không
cao.
+ Cơ quan quân sự địa phương các cấp chỉ đạo chặt
chẽ các doanh nghiệp đứng chân trên địa bàn tiếp tục củng cố, xây dựng lực lượng
tự vệ, theo Pháp lệnh về DQTV; nghiên cứu, từng bước xây dựng phát triển lực lượng
tự vệ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
trước hết là đối với các doanh nghiệp đã có tổ chức đảng, đảng viên.
b) Đối với DBĐV
+ Thực hiện tốt việc đăng ký và quản lý quân
nhân dự bị. Đăng ký triệt để về đối tượng, số lượng, chính xác về chất lượng;
quản lý được di, biến động quân dự bị.
+ Hoàn thành việc sắp xếp biên chế, tổ chức các
đơn vị DBĐV, quản lý chặt chẽ, có nền nếp tại cơ sở. Tập trung xây dựng toàn diện
cho các đơn vị dự bị động viên có nhiệm vụ sẵn sàng động viên trong trạng thái
sẵn sàng chiến đấu cao, các đơn vị làm nhiệm vụ A2, nhất là các đơn vị ở địa
bàn trọng điểm.
+ Thực hiện phân cấp cụ thể việc bảo đảm hậu cần,
vũ khí trang bị kỹ thuật, tài chính… và dự trữ cho nhiệm vụ động viên.
+ Thường xuyên rà soát, kịp thời điều chỉnh kế
hoạch xây dựng, huy động và tiếp nhận lực lượng DBĐV phù hợp với yêu cầu tình
hình mới.
+ Chuẩn bị chu đáo mọi mặt, bảo đảm cho lực lượng
DBĐV luôn đáp ứng yêu cầu sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu đối phó với
các tình huống trong khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố và trên từng hướng chiến
lược, kể cả tình huống bạo loạn có can thiệp vũ trang từ bên ngoài và chiến
tranh xâm lược quy mô lớn.
2.4. Giáo dục chính trị và
pháp luật.
a) Tổng Cục Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo
các cơ quan chức năng đưa nội dung chỉ thị của Ban Bí thư, Pháp lệnh về DQTV và
Pháp lệnh về lực lượng DBĐV vào nội dung bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán
bộ, công chức các cấp tại học viện quốc phòng, trường Quân sự quân khu, trường
quân sự tỉnh, thành phố.
b) Tổng Cục Chính trị chủ trì phối hợp với Bộ Tổng
Tham mưu nghiên cứu đổi mới nội dung, chương trình; phương pháp giáo dục chính
trị và pháp luật cho lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV theo hướng: sát đối tượng,
dễ hiểu, dễ tiếp thu. Nội dung cần đi vào: Truyền thống dân tộc, tinh thần yêu
nước, yêu chế độ XHCN; mục tiêu lý tưởng của Đảng; con đường đi lên CNXH mà Đảng
và nhân dân ta lựa chọn; Quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược, nhiệm vụ củng cố
quốc phòng - an ninh, chống "Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch; công tác quốc phòng địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân. Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp, Pháp luật, Pháp lệnh về DQTV và
Pháp lệnh về lực lượng DBĐV; nội dung, phương pháp tiến hành vận động quần
chúng của lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV…
c) Các đơn vị và cơ quan quân sự các cấp thực hiện
nghiêm túc nội dung, chương trình giáo dục chính trị cho quân nhân trước khi xuất
ngũ, chương trình giáo dục hằng năm cho DQTV, quân nhân dự bị bằng các hình thức
phù hợp. Chú trọng giáo dục và quản lý tư tưởng, đảm bảo cho DQTV, quân nhân dự
bị có bản lĩnh chính trị vững vàng, khi có lệnh yên tâm, phấn khởi thực hiện
nhiệm vụ.
2.5. - Huấn luyện v à hoạt động
chiến đấu của lực lượng DQTV v à lực lượng DBĐV
a) Về công tác huấn luyện
* Đối với lực lượng DQTV:
+ Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu đổi mới nội dung,
chương trình, thời gian huấn luyện cho phù hợp với từng đối tượng, từng vùng,
miền và yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương, cơ sở cả trước mắt và lâu dài, chú trọng
nội dung thực hành xử lý các tình huống "Diễn biến hòa bình”, Bạo loạn lật
đổ của các thế lực thù địch.
+ Trong huấn luyện, các địa phương cần năm vững
phương châm "cơ bản, thiết thực, chất lượng”. Coi trọng huấn luyện cán bộ
các cấp, huấn luyện toàn diện các lực lượng DQTV nhưng chú trọng lực lượng cơ động,
binh chủng, lực lượng làm nhiệm vụ A2. Đồng thời chú trọng làm tốt diễn tập vận
hành cơ chế "Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự làm
tham mưu”, sát thực tiễn của từng địa phương, bảo đảm khi có tình huống xảy ra
xử lý kịp thời, hiệu quả.
* Đối với lực lượng DBĐV
+ Để nâng cao chất lượng toàn diện cho lực lượng
DBĐV phải tiếp tục nghiên cứu, cải tiến nội dung, phương pháp tổ chức huấn luyện
quân nhân dự bị, huấn luyện phân đội DBĐV, tập trung chủ yếu là đội ngũ sĩ
quan, chuyên môn kỹ thuật, huấn luyện tạo nguồn và các đối tượng nòng cốt khác
trong đơn vị DBĐV. Coi trọng huấn luyện phân đội đối với các đơn vị DBĐV có đủ
điều kiện , đặc biệt coi trọng huấn luyện phân đội DBĐV để sẵn sàng thực hiện
nhiệm vụ A2 và nhiệm vụ động viên ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao.
+ Trong những năm tới cần phấn đấu nâng dần số
quân nhân dự bị được tập trung huấn luyện hằng năm để nâng cao trình độ kỹ thuật,
chiến thuật và khả năng chiến đấu hiệp đồng.
+ Chú trọng đầu tư từng bước xây dựng trung tâm
huấn luyện quân nhân dự bị tại từng địa phương, đảm bảo thao trường, học cụ,
nơi ăn, ở, sinh hoạt, học tập hợp lý.
b) Về hoạt động
* Đối với lực lượng DQTV
+ DQTV phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt,
là công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân ở cơ sở trong mọi tình
huống. Nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng DQTV, thường xuyên tổ chức tuần
tra, canh gác bảo vệ các mục tiêu quan trọng của địa phương. Cùng với các lực
lượng khác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tham gia vân động
quần chúng phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai.
+ Khi có tình huống xảy ra phải chủ động phối hợp
chặt chẽ với công an và các lực lượng khác bảo vệ an toàn trụ sở của tổ chức Đảng,
chính quyền các cấp, cán bộ, nhân dân và các mục tiêu trọng yếu khác như: đài
phát thanh, truyền hình, bưu điện, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của địa
phương.
* Đối với lực lượng DBĐV
+ Đơn vị DBĐV được sắp xếp đủ biên chế, quản lý
huấn luyện tốt, thực hiện nghiêm chế độ sinh hoạt theo quy định, sẵn sàng động
viên tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội, khi có nhu cầu chiến đấu
để bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ mà chưa đến mức phải động viên
cục bộ. Kịp thời ứng phó với các tình huống "Diễn biến hòa bình”, bạo loạn
lật đổ có vũ trang hoặc xâm phạm chủ quyền lãnh thổ ngay trên từng địa phương.
+ Sẵn sàng động viên bổ sung cho lực lượng thường
trực của quân đội chống chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
3. Công tác tuyên truyền.
a) Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
chỉ đạo cơ quan chính trị các quân khu, cơ quan quân sự các địa phương, phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan chức năng thường xuyên làm tốt tuyên truyền vận động
nhân dân tham gia xây dựng lực lượng DQTV và các lực lượng DBĐV.
b) Cơ quan quân sự các địa phương phối hợp chặt
chẽ với Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, Thành ủy, các báo đài, báo địa phương tuyên
truyền phổ biến sâu rộng trong toàn dân pháp lệnh về DQTV và Pháp lệnh về lực
lượng DBĐV, kịp thời biểu dương gương người tốt, việc tốt của lực lượng DBĐV và
lực lượng DBĐV. Tăng cường nội dung và thời lượng phát sóng về công tác quốc
phòng, quân sự trên đài phát thanh và truyền hình địa phương.
4. Bảo đảm ngân sách và thực
hiện chế độ, chính sách đối với lực lượng DQTV và DBĐV.
a) Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan,
đơn vị cần quan tâm đầy đủ, đảm bảo kinh phí, ngân sách hằng năm cho công tác
xây dựng, huấn luyện, hoạt động và thực hiện chế độ, chính sách với lực lượng
DQTV và lực lượng DBĐV theo đúng quy định của Pháp lệnh về DQTV và Pháp lệnh về
lực lượng DBĐV.
b) Hằng năm các quân khu chỉ đạo các địa phương
xây dựng dự toán ngân sách chi cho công tác quốc phòng địa phương báo cáo Bộ
theo quy định tại Chỉ thị số 80/2002/CT- BQP ngày 14/6/2002 của Bộ Quốc phòng.
Trong dự toán cần tính đủ, tính đúng, chú ý các vùng sâu, vùng xa, những nơi
kinh tế kém phát triển, đời sống nhân dân khó khăn, địa phương thu không đủ
chi, tránh bình quân chủ nghĩa.
III. Biện pháp và thời gian
thực hiện
1. Biện pháp:
a) Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy phát huy hiệu
lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp đối với lực lượng DQTV v à lực
lượng DBĐV; thường xuyên năm chắc tình hình tổ chức biên chế, trang bị v ũ khí,
tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ DQTV v à DBĐV. Gắn xây dựng DQTV, DBĐV v ới xây dựng
cơ sở vững mạnh toàn diện củng cố kiện toàn BCHQS cơ sở v ới đổi mới nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn theo Nghị quyết TW 5
khóa IX.
b) Thường xuyên và định kỳ kiểm tra, đôn đốc thực
hiện nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện và hoạt động bảo đảm chế độ, chính sách cho
lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV.
c) Bộ Quốc phòng nghiên cứu trình Chính phủ và Ủy
Ban thường vụ Quốc hội sửa đổi Pháp lệnh về DQTV, Pháp lệnh về lực lượng DBĐV
cho phù hợp với tình hình mới.
d) Định kỳ hằng quý, 6 tháng và 1 năm tập thể cấp
ủy nghe Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn và đơn vị tự vệ báo cáo kết quả
xây dựng và hoạt động của lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV để có biện pháp lãnh
đạo, chỉ đạo kịp thời.
đ) Căn cứ Chỉ thị 16/CT-TW và hướng dẫn này các
cấp cần cụ thể hóa để tổ chức thực hiện sát với từng cơ quan, đơn vị, địa
phương.
2. Thời gian thực hiện
a) Từ này cho đến hết quý I năm 2003, các cấp,
các ngành phải tổ chức quán triệt xong Chỉ thị.
b) Quý II năm 2003 các cấp ủy có Nghị quyết
chuyên đề về lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV.
c) Từ cuối quý II năm 2003 trở đi tất cả các cấp,
các ngành triển khai thực hiện các nội dung quy định trong Chỉ thị này.
d) Hằng năm các địa phương báo cáo kết quả thực
hiện Chỉ thị về Ban Bí thư (qua Đảng ủy quân sự Trung ương) vào ngày 15 tháng
11.
|
T.M THƯỜNG VỤ
ĐẢNG ỦY QUÂN SỰ TW
PHÓ BÍ THƯ
Phạm Văn Trà
|