Báo cáo 560/BC-BYT năm 2023 về tiến độ thực hiện Quyết định 659/QĐ-TTg do Bộ Y tế ban hành

Số hiệu 560/BC-BYT
Ngày ban hành 27/04/2023
Ngày có hiệu lực 27/04/2023
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Bộ Y tế
Người ký Nguyễn Thị Liên Hương
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ Y TẾ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 560/BC-BYT

Hà Nội, ngày 27 tháng 4 năm 2023

 

BÁO CÁO

TIẾN ĐỘ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH SỐ 659/QĐ-TTG NGÀY 20/5/2020 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ GIAI ĐOẠN 2020-2022

Kính gửi:

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà;

Đồng kính gửi:

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.

Ngày 20/5/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 659/QĐ-TTg (Quyết định số 659/QĐ-TTg) phê duyệt Chương trình chăm sóc và nâng cao sức khỏe người lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp giai đoạn 2020-2030 (Chương trình). Chương trình được tổ chức triển khai trên toàn quốc với mục tiêu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho người lao động, khuyến khích lối sống, dinh dưỡng lành mạnh tại nơi làm việc, phòng, chống bệnh, tật và bệnh nghề nghiệp cho người lao động, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Qua ba năm triển khai, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 có tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến đời sống của người lao động, Chương trình đã được các Bộ ngành, địa phương nỗ lực triển khai, từng bước phát huy được hiệu quả.

Với nhiệm vụ của Bộ Y tế được giao tại Quyết định số 659/QĐ-TTg về báo cáo triển khai Chương trình, trên cơ sở tổng hợp số liệu, báo cáo kết quả thực hiện1 của 17 Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ (Phụ lục số 1); 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; ý kiến đóng góp của các cơ quan, địa phương2 (Phụ lục số 2); ý kiến chỉ đạo của Ban Cán sự Đảng Bộ Y tế3; Bộ Y tế báo cáo Thủ tướng Chính phủ tiến độ triển khai sau 03 năm thực hiện như sau:

I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN MỤC TIÊU VÀ CHỈ TIÊU ĐẾN NĂM 2022 TẠI CÁC ĐỊA PHƯƠNG

1. Xây dựng cơ sở dữ liệu về kết quả quan trắc môi trường lao động, bệnh nghề nghiệp (Chỉ tiêu đạt 100% vào năm 2025 và kết nối vào năm 2030).

a) Xây dựng cơ sở dữ liệu về kết quả quan trắc môi trường lao động tại các cơ sở lao động trên địa bàn: 09 địa phương (đạt 14,3%) đã xây dựng và cập nhật đến năm 2022; 23 địa phương (36,5%) đang tiến hành xây dựng; 26 địa phương (41,3%) chưa tiến hành xây dựng và 05 địa phương (7,9%) không có báo cáo.

b) Xây dựng cơ sở dữ liệu bệnh nghề nghiệp người lao động trên địa bàn: 06 địa phương (9,5%) báo cáo đã xây dựng và cập nhật đến năm 2022; 51 địa phương (81%) chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu bệnh nghề nghiệp và 06 địa phương (9,5%) không có báo cáo.

2. Quản lý cơ sở lao động có yếu tố có hại gây bệnh nghề nghiệp (Tỷ lệ % các cơ sở lao động có yếu tố có hại gây bệnh nghề nghiệp được quản lý trên tổng số cơ sở lao động có yếu tố có hại: Chỉ tiêu đạt 50% vào năm 2025 và 80% vào năm 2030): 25 địa phương (39,7%) báo cáo đạt mục tiêu đề ra. 34 địa phương (54%) chưa đạt chỉ tiêu (mới quản lý dưới 50%) và 04 địa phương (6,3%) không có báo cáo.

3. Kiểm tra công tác quan trắc môi trường lao động (Tỷ lệ phần trăm (%) các cơ sở lao động có yếu tố có hại gây bệnh nghề nghiệp được kiểm tra công tác quan trắc môi trường lao động: Chỉ tiêu đạt 30% vào năm 2025 và 50% vào năm 2030): 18 địa phương (28,6%) đạt trên 30% và 42 địa phương (66,6%) đạt dưới 30%; Có 03 địa phương (4,8%) không có số liệu; trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh và Vĩnh Phúc với đặc thù là tỉnh công nghiệp trọng điểm với số lượng cơ sở lao động lớn nhưng chưa được thống kê số liệu4.

4. Lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động không có hợp đồng lao động vào hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu tại y tế cơ sở (Tỷ lệ số huyện/xã lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động không có hợp đồng lao động vào hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) tại y tế cơ sở): Chỉ tiêu đạt 40% vào năm 2025 và 70% vào năm 2030: Chưa được các địa phương chú trọng triển khai.

a) Tỷ lệ lồng ghép vào hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu tại tuyến huyện: Có 13 địa phương (20,6%) báo cáo 100% số huyện lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động không có hợp đồng lao động vào hoạt động CSSKBĐ; 28 địa phương (khoảng 44,4%) không báo cáo.

b) Tỷ lệ lồng ghép vào hoạt động CSSKBĐ tại tuyến xã: Có 15 địa phương (23,8%) đạt từ 40% trở lên, và có tới 31 địa phương (49,2%) không báo cáo tình hình thực hiện chỉ số này.

c) Tỷ lệ cơ sở lao động được tư vấn về các bệnh không lây nhiễm, các biện pháp phòng chống, nâng cao sức khỏe, lao động phù hợp với sức khỏe, dinh dưỡng hợp vệ sinh, phù hợp điều kiện lao động, tăng cường vận động tại nơi làm việc. Hiện mới chỉ có 17 địa phương (27%) báo cáo thực hiện chỉ số này đạt từ 50% trở lên, trong đó có 04 địa phương (Phú Yên, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Trà Vinh) báo cáo thực hiện 100% cơ sở lao động tư vấn về các bệnh không lây nhiễm, biện pháp phòng chống, nâng cao sức khỏe dinh dưỡng tăng cường vận động; 32 địa phương (50,8%) báo cáo thực hiện chỉ số này đạt dưới 50%; hiện có 14 địa phương (24,2%) không có báo cáo việc thực hiện chỉ số này.

Số địa phương nghiên cứu và triển khai thực hiện chỉ số này còn hạn chế, do vậy cần tăng cường hướng dẫn và thúc đẩy các địa phương thực hiện chỉ số này mới đảm bảo được các địa phương tổ chức triển khai và đạt hiệu quả vào các kỳ báo cáo.

5. Quản lý sức khỏe người lao động tại các cơ sở lao động có nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp (Tỷ lệ người lao động tại các cơ sở lao động có nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp được tiếp cận thông tin về yếu tố có hại, biện pháp phòng chống bệnh nghề nghiệp): Chỉ tiêu đạt 50% vào năm 2025 và 100% vào năm 2030.

a) 21 địa phương (33,3%) báo cáo tỷ lệ tiếp cận đạt trên 50%; 35 địa phương (55%) đạt dưới 50%. Đặc biệt là những địa phương là vùng công nghiệp trọng điểm như Bắc Ninh và Bà Rịa Vũng Tàu có tỷ lệ tiếp cận thông tin về yếu tố có hại và các biện pháp phòng chống của người lao động thấp dưới 20%.

b) Hiện mới có 07 địa phương (11,1%) thực hiện khám phát hiện bệnh nghề nghiệp cho trên 50% số người lao động có nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp5; 49 địa phương (77,8%) thực hiện khám phát hiện bệnh nghề nghiệp cho dưới 50% số người lao động có nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp và 7 địa phương không báo cáo về tình hình thực hiện chỉ số này6.

6. Người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được sơ cấp cứu tại nơi làm việc, khám bệnh, điều trị và phục hồi chức năng (Tỷ lệ người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được sơ cấp cứu tại nơi làm việc, khám bệnh, điều trị và phục hồi chức năng): Chỉ tiêu đạt 100%.

a) Việc thực hiện chỉ tiêu điều trị, phục hồi chức năng bệnh nghề nghiệp còn hạn chế. Luật An toàn vệ sinh lao động đã quy định toàn bộ người lao động sau khi được khám chẩn đoán bệnh nghề nghiệp đều phải được giám định và được điều trị bệnh nghề nghiệp mắc phải. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có 15 địa phương (23,8%) báo cáo tỷ lệ thực hiện khám điều trị cho người lao động sau khi được phát hiện bệnh nghề nghiệp đạt 100%. Toàn bộ người bị bệnh nghề nghiệp được điều dưỡng phục hồi chức năng đã được quy định bởi Luật An toàn vệ sinh lao động. Tuy nhiên mới chỉ có 17 địa phương (27%) thực hiện được nội dung này đạt 100%.

b) Người bị tai nạn lao động được sơ cấp cứu tại nơi làm việc, khám bệnh, điều trị và phục hồi chức năng: Việc thực hiện các quy định về sơ cứu, cấp cứu, khám bệnh, điều trị sau khi bị tai nạn cho người lao động tại nơi làm việc được các địa phương làm tương đối tốt. Đã có 37 tỉnh (58,7%) báo cáo thực hiện đầy đủ việc sơ cứu, cấp cứu, khám, điều trị sau khi bị tai nạn lao động cho người lao động bị tai nạn lao động tại nơi làm việc đạt 100%. Tỷ lệ người bị tai nạn lao động được phục hồi chức năng sau tai nạn lao động: Có 24 địa phương (38,1%) thực hiện phục hồi chức năng cho 100% số người lao động bị tai nạn lao động trên địa bàn.

7. Người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất được tư vấn và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng chống HIV/AIDS và nuôi con bằng sữa mẹ (lao động nữ). Chỉ tiêu đạt 100% vào năm 2030.

a) Đối với lao động nữ, chỉ số theo dõi người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất được tư vấn và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và nuôi con bằng sữa mẹ (lao động nữ) chưa được các địa phương chú trọng triển khai. Các quy định đối với cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và nuôi con bằng sữa mẹ đã có nhưng việc triển khai trong các khu công nghiệp, khu chế xuất theo báo cáo của các địa phương còn nhiều hạn chế. Mới chỉ có 6 địa phương có tỷ lệ người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất được tư vấn và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và nuôi con bằng sữa mẹ (lao động nữ) đạt 100%. Ngoài ra có tới 23 địa phương báo cáo tình hình thực hiện chỉ số này đạt tỷ lệ dưới 50%7.

b) Tỷ lệ % người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất được tư vấn và cung cấp dịch vụ phòng chống HIV/AIDS (Chỉ tiêu: Đạt 100% vào năm 2030). Chỉ số này cũng tương thích với chỉ số tư vấn về sức khỏe sinh sản và nuôi con bằng sữa mẹ, các địa phương chưa quan tâm triển khai và báo cáo việc thực hiện. Cụ thể chỉ có 6 địa phương (9,5%) báo cáo người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất được tư vấn và cung cấp dịch vụ phòng chống HIV/AIDS.

8. Số vụ ngộ độc thực phẩm tập thể tại các cơ sở lao động (Chỉ tiêu giảm 15% và 25% số vụ ngộ độc thực phẩm vào năm 2025 và năm 2030 so với 2010-2018). Công tác thống kê các vụ ngộ độc thực phẩm tập thể tại các địa phương phần lớn chỉ ghi nhận dưới 10 vụ/năm (55 địa phương). Vẫn còn 8 tỉnh không có báo cáo về công tác an toàn thực phẩm trong các cơ sở lao động.

Số liệu chi tiết của từng tỉnh có trong Phụ lục số 3 và số 4.

[...]