Thứ 6, Ngày 25/10/2024

Báo cáo 1187/BC-BNN-KTHT năm 2014 "rà soát, đánh giá thực trạng hạ tầng nông thôn; đề xuất cơ chế, chính sách giải quyết cơ bản tình hình sản xuất, đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số, dân di cư tự do Tây Nguyên" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành

Số hiệu 1187/BC-BNN-KTHT
Ngày ban hành 10/04/2014
Ngày có hiệu lực 10/04/2014
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Người ký Hà Công Tuấn
Lĩnh vực Xây dựng - Đô thị,Văn hóa - Xã hội

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1187/BC-BNN-KTHT

Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2014

 

BÁO CÁO

"RÀ SOÁT, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HẠ TẦNG NÔNG THÔN; ĐỀ XUẤT CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT CƠ BẢN TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, ĐỜI SỐNG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ, DÂN DI CƯ TỰ DO TÂY NGUYÊN".

Kính gửi: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên,

Triển khai kế hoạch thực hiện Kết luận số 12.KL/TW năm 2013, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên phân công Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các tỉnh Tây Nguyên thực hiện Chuyên đề: "Tiếp tục tổ chức rà soát thực trạng hạ tầng nông thôn; đánh giá tình hình sử dụng đất, rừng; tình hình sản xuất, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và dân di cư tự do ở các tỉnh Tây Nguyên để đề xuất cơ chế, chính sách giải quyết cơ bản tình hình sản xuất, đời sống vùng đồng bào DTTS"; Bộ Nông nghiệp và PTNT tổ chức Đoàn công tác Liên ngành gồm các Bộ, ngành liên quan (Tài nguyên và Môi trường; Tài chính; Lao động-Thương binh và Xã hội; Ủy ban Dân tộc, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên) tiến hành khảo sát các tỉnh Tây Nguyên từ ngày 01/10/2013 đến ngày 10/10/2013. Qua kết quả khảo sát và theo báo cáo của các tỉnh Tây Nguyên về tình trạng hạ tầng nông thôn, tình hình sử dụng đất, rừng; tình hình sản xuất, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và dân di cư tự do ở các tỉnh Tây Nguyên gần một năm qua cơ bản không có thay đổi đáng kể so với báo cáo Kết quả rà soát của Bộ Nông nghiệp và PTNT (báo cáo Chuyên đề "Tổ chức rà soát thực trạng hạ tầng nông thôn, đánh giá tình hình sử dụng đất, rừng; tình hình sản xuất, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và dân di cư tự do các tỉnh Tây Nguyên") số 1045/BC-BNN-KTHT ngày 29/3/2013 gửi Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, các Bộ ngành liên quan và UBND các tỉnh Tây Nguyên. Thực hiện phân công của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Bộ Nông nghiệp và PTNT tiếp tục có báo cáo, đề xuất như sau:

I. MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ TỒN TẠI TRONG THỰC HIỆN CÁC CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH VÙNG TÂY NGUYÊN

1. Về cơ sở hạ tầng:

Nhìn chung hạ tầng khu vực nông thôn còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, phát triển sản xuất và đời sống của người dân, cụ thể:

1.1. Về giao thông: giao thông ở nông thôn chưa đồng đều, các huyện nghèo và huyện biên giới vẫn gặp rất nhiều khó khăn, mùa mưa còn hơn 3% số xã bị chia cắt, 14% số xã chưa được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đường đến trung tâm xã. Đến thời điểm điều tra 5, tỉnh Tây nguyên 37 xã có hệ thống giao thông đạt theo tiêu chí nông thôn mới, chiếm 6,2% so với tổng số xã xây dựng nông thôn mới( 37/597 xã). Tuyến giao thông huyết mạch (Quốc lộ 14) xuống cấp nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến việc đi lại, lưu thông hàng hóa từ Tây Nguyên đến thành phố Hồ Chí Minh, và các tỉnh thành lân cận, thời gian vận chuyển hàng hóa so với trước đây kéo dài hơn 1.5 đến 2 lần, làm tăng thêm chi phí, giảm sức cạnh tranh hàng hóa ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư vào Tây Nguyên.

1.2. Về thủy lợi: Hiện nay mới đáp ứng được 54,5% diện tích có nhu cầu tưới (không kể các công trình tự tạo của người dân như giếng đào, đập dâng), mới có 154 xã có thủy lợi đạt tiêu chí nông thôn mới, chiếm 25,8% so với tổng số xã xây dựng nông thôn mới (154 xã/ 597 xã); 20,4% (253 /1239 công trình hồ đập). Phần lớn công trình hồ đập đã xung cấp nghiêm trọng không đảm bảo tích nước theo thiết kế hoặc không tích được nước nên nhiều diện tích bị bỏ hoang do không được tưới, khó áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất cây trồng. Đặc biệt, một số hồ đập đang có nguy cơ bị vỡ, đe dọa đến tính mạng và tài sản của nhân dân vùng hạ lưu.

1.3. Về Thủy Điện: Hầu hết các hồ chứa nước thủy điện vừa và nhỏ do chủ đầu tư thuê tư vấn lập quy trình vận hành hồ chứa, mới chú ý phục vụ nhu cầu phát điện, không có dung tích phòng lũ hữu hiệu, xả lũ không hợp lý làm thay đổi dòng chảy, cắt nước trong mùa khô, tác động xấu đến môi trường, sản xuất và đời sống của người dân.

2. Về thực hiện các cơ chế chính sách ổn định đời sống cho đồng bào DTTS và dân di cư tự do:

Tây Nguyên đang áp dụng 12 chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ đồng bào DTTS còn hiệu lực. Thời gian qua hệ thống các chính sách đã giải quyết được những khó khăn vướng mắc cho đồng bào DTTS và dân DCTD, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân, giữ vững quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, Tây nguyên đến nay vẫn còn 226.315 hộ nghèo chiếm 18,9%, trong đó hộ đồng bào DTTS 149.578 chiếm 38,02% so với tổng số hộ nghèo; khoảng cách giàu nghèo giữa nhóm cộng đồng dân cư đồng bào dân tộc thiểu số với các nhóm dân cư khác chưa được thu hẹp, thậm chí có xu hướng dãn ra. Bên cạnh đó một số chính sách không còn phù hợp nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung; thiếu đồng bộ, còn chồng chéo; nhiều đầu mối quản lý; nguồn lực không tương xứng với quy định của chính sách, về tài chính mới chỉ đáp ứng được từ 30 - 50% nhu cầu, do vậy chưa khuyến khích sự phấn đấu vươn lên của một bộ phận đồng bào DTTS; tư tưởng trông chờ ỷ lại vào trợ cấp của Nhà nước còn phổ biến.

2.1. Về thực hiện Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về khoán bảo vệ rừng.

Kết quả thực hiện Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 23/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng trong buôn, làng là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây Nguyên còn hạn chế, kết quả rừng vẫn mất, đời sống của đồng bào không được cải thiện, do hình thức giao khoán chưa phù hợp, diện tích giao khoán, tiền công giao khoán bảo vệ cho 01 ha quá thấp, không gắn được lợi ích và trách nhiệm của người nhận khoán. Mặt khác rừng giao cho các hộ đồng bào chủ yếu là rừng nghèo, và đất lâm nghiệp phải đầu tư nhiều vốn và thời gian dài mới có thu hoạch, trong khi đó đời sống của đồng bào tại chỗ gặp nhiều khó khăn nên chưa kích thích được người dân tham gia tích cực vào công tác nhận rừng. Bên cạnh đó việc giao, nhận rừng có nơi làm vội chỉ giao trên bản đồ, không cắm mốc, không kiểm kê rừng cụ thể, mặt khác hình thức chế tài đối với hộ nhận khoán để mất rừng chưa cụ thể, chưa quy được trách nhiệm để xử lý theo quy định hiện hành. Còn một bộ phận các hộ gia đình nhận khoán bảo vệ rừng, thiếu trách nhiệm trong công tác tuần tra bảo vệ rừng, nên rừng bị phá, bị lấn chiếm không phát hiện kịp thời, báo cáo cho các cơ quan chức năng xử lý.

2.2. Về thực hiện Quyết định số 132; 134; 1592 và hiện nay là Quyết định 755/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 (chỉ đánh giá về mặt giao đất ở, đất sản xuất)

Thứ nhất: Hạn mức cấp đất sản xuất cho một hộ quá thấp, bình quân 0.5 ha/hộ, khoảng cách đi lại sản xuất quá xa nên một số hộ không nhận đất đã sang nhượng hoặc bỏ hoang không sản xuất.

Thứ hai: Công tác khảo sát thống kê ban đầu của các địa phương không đy đủ về nhu cầu đất ở và đất sản xuất của các hộ đồng bào DTTS, bỏ sót một số hộ đồng bào do tập quán ở chung với cha mẹ nay tách hộ để hưởng các chế độ chính sách; do cấp đất xấu, cấp đất có tranh chấp, một bộ phận lợi dụng chủ trương tách hộ để nhận chính sách; do quản lý không chặt chẽ của chính quyền địa phương nên họ đã bán, sang nhượng cho người khác; một số địa phương không còn quỹ đất để cấp cho các hộ dân. Vì vậy, đến nay các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn trên 31.069 hộ, thiếu 17.516 ha đất sản xuất.

2.3. Về thực hiện các Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006, Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg, Quyết định 135 giai đoạn II, Quyết định 167, Quyết định 102 của Thủ tướng Chính phủ và một số chính sách khác.

- Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006; Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 về Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007-2010: Hạn chế lớn nhất của hai Chương trình này là nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương rất thấp chỉ đáp ng khoảng 35-60% nhu cầu của địa phương. Nhiều dự án được phê duyệt nhưng không được cấp vốn đầu tư hoặc đầu tư dở dang không đủ điều kiện để bố trí dân cư vào sinh sống, đến nay các tỉnh Tây nguyên còn khoảng 22.868 hộ, 110.000 khẩu chưa được sắp xếp, ổn định. Nhiều hộ đồng bào dân tộc đang gặp khó khăn về đất sản xuất, nhà ở có nguy cơ du canh, du cư; bên cạnh đó tình trạng dân DCTD từ các tỉnh phía Bắc vẫn tiếp tục diễn ra, gây khó khăn cho các địa phương, ảnh hưởng đến quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương có dân đến.

- Quyết định 135 giai đoạn II mức đầu tư 1 tỷ/xã/năm (nay là Quyết định 551/QĐ-TTg ngày 4/4/2013): Mức đầu tư cho các xã thuộc Tây Nguyên cũng bằng mức bình quân cho các xã đặc biệt khó khăn của cả nước như hiện nay (1,5 tỷ xã/năm) là chưa phù hợp; thực tế diện tích tự nhiên của các xã thuộc các tỉnh Tây nguyên rất lớn thường gấp 3-4 lần các xã 135 của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, gấp 2-3 lần các tỉnh Miền Trung và các tỉnh phía Bắc; hơn nữa địa hình của Tây Nguyên bị chia chia cắt lớn, giao thông đi lại không thuận tiện, nên việc đầu tư gặp khó khăn và kéo dài, ảnh hưởng đến sản xuất, lưu thông hàng hóa và đời sống của người dân.

- Quyết định 167/2008/QĐ-TTg, ngày 12/12/2008 chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở: Định mức hỗ trợ thấp, chưa phù hợp với giá cả vật liệu xây dựng tăng của thị trường, đa số hộ nghèo là đồng bào DTTS không có kinh phí bổ sung thêm để xây dựng đủ diện tích ở và đạt chất lượng theo quy định, thường nhà xây nhỏ hẹp không đảm bảo cho các hộ sinh sống.

- Quyết định 102/2009/QĐ-TTg, ngày 07/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo vùng khó khăn: Mức hỗ trợ cho các hộ nghèo như hiện nay (80.000 đ/khẩu và 100.000 đ/khẩu tùy theo khu vực) không những không giúp họ bớt nghèo mà còn tạo hệ lụy trông chờ ỷ lại không muốn thoát nghèo của các hộ dân Tuy nhiên nếu tính trên phạm vi cả nước tổng nguồn ngân sách hỗ trợ hàng năm cho đối tượng này là không nhỏ. Nhưng hiệu quả mang lại không tương xứng.

3. Một số tồn tại khác:

- Trong những năm vừa qua nhiều mô hình áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên tiến về trồng trọt, chăn nuôi được hỗ trợ đầu tư nhiều trên địa bàn các tỉnh tây Nguyên, nhưng ít có mô hình triển khai xong được nhân rộng đưa vào sản xuất, mà chủ yếu chỉ dừng lại sau khi xây dựng thí điểm.

- Trong thời gian qua tình hình sinh đẻ của đồng bào DTTS ở nhiều địa phương bị buông lỏng, thiếu sự vận động thường xuyên, liên tục của các cấp hội, chính quyền, không có kế hoạch, còn đẻ nhiều, đẻ dầy, bình quân ở mức cao t3 đến 4 con /phụ nữ nên đời sống của các hộ đông con càng khó khăn hơn.

II. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ CHÍNH SÁCH

1. Nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện những chủ trương chính sách chung cho phát triển sản xuất nông nghiệp và giảm nghèo bền vững, ổn định đời sống cho đồng bào DTTS:

- Triển khai thực hiện Quyết định 33/2013/QĐ-TTg, ngày 04/6/2013 về việc tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào DTTS đến năm 2015; Quyết định 1776/QĐ-TTg, ngày 21/11/2012, về Phê duyệt Chương trình bố trí dân cư các vùng: Thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự do, khu rừng đặc dụng giai đoạn 2013-2015 và định hướng đến 2020; Quyết định 551/QĐ-TTg ngày 04/4/2013, của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên gii, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn.

[...]