Giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được quy định như thế nào?

Giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được quy định như thế nào? Có thể tìm hiểu thông tin tại văn bản pháp luật nào?

Nội dung chính

    Giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được quy định như thế nào?

    Theo quy định tại Điều 5 Nghị định 163/2017/NĐ-CP quy định về kinh doanh dịch vụ logistics có hiệu lực thi hành từ ngày 20/02/2018 thì giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được quy định cụ thể như sau:

    - Giới hạn trách nhiệm là hạn mức tối đa mà thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng đối với những tổn thất phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện dịch vụ logistics theo quy định tại Nghị định này.

    - Trong trường hợp pháp luật liên quan có quy định về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thì thực hiện theo quy định của pháp luật liên quan.

    - Trường hợp pháp luật liên quan không quy định giới hạn trách nhiệm thì giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không có thoả thuận thì thực hiện như sau:

    + Trường hợp khách hàng không có thông báo trước về trị giá của hàng hóa thì giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường.

    + Trường hợp khách hàng đã thông báo trước về trị giá của hàng hóa và được thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics xác nhận thì giới hạn trách nhiệm sẽ không vượt quá trị giá của hàng hóa đó.

    - Giới hạn trách nhiệm đối với trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ chức thực hiện nhiều công đoạn có quy định giới hạn trách nhiệm khác nhau là giới hạn trách nhiệm của công đoạn có giới hạn trách nhiệm cao nhất.

    Trên đây là nội dung tư vấn về giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Để biết thêm thông tin chi tiết, bạn nên tham khảo thêm tại Nghị định 163/2017/NĐ-CP.

     

    51