10:27 - 03/10/2024

Điều kiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của pháp luật hiện hành là gì?

Do biết công ty A chưa đăng kí bảo hộ logo nên công ty B đã yêu cầu tôi vẽ 1 logo gần giống với logo A. Điều kiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của pháp luật hiện hành là gì?

Nội dung chính

    Điều kiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của pháp luật hiện hành là gì?

    Khoản 3 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định về việc xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu như sau:

    a) Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký;
    b) Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó;
    c) Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó;
    d) Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.

    Theo đó, quyền đối với nhãn hiệu (trừ nhãn hiệu nổi tiếng) được xác lập trên cơ sở nhãn hiệu đã được đăng ký tại Việt Nam theo quyết định cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu của Cục Sở hữu trí tuệ (hoặc quyết định chấp nhận bảo hộ hoặc giấy chứng nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam do Cục Sở hữu trí tuệ cấp).

    Người được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu là chủ sở hữu của nhãn hiệu đã đăng ký và được hưởng quyền đối với nhãn hiệu trong phạm vi bảo hộ ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu và trong thời hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Khi cá nhân, tổ chức sử dụng nhãn hiệu không thực hiện việc đăng ký thì đồng nghĩa với việc chưa xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu đó. 

    Do đó, việc một người khác sử dụng hoặc thiết kế một nhãn hiệu tương tự không đồng nghĩa với việc xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu chưa thực hiện thủ tục đăng ký. Người nào thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu nhãn hiệu trước sẽ được ưu tiên bảo hộ về quyền sở hữu đối với nhãn hiệu đó theo quy định của pháp luật về Sở hữu trí tuệ Việt Nam.

    3