Tuyên ngôn về bảo vệ tất cả mọi người khỏi sự cưỡng bức mất tích, 1982

Số hiệu Khongso
Ngày ban hành 18/12/1982
Ngày có hiệu lực
Loại văn bản Điều ước quốc tế
Cơ quan ban hành Liên hợp quốc
Người ký ***
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

TUYÊN NGÔN VỀ BẢO VỆ TẤT CẢ MỌI NGƯỜI KHỎI SỰ CƯỠNG BỨC MẤT TÍCH, 1982

(Theo Nghị quyết số 47/133 ngày 18/12/1982 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc).

Đại Hội đồng,

Xét rằng, theo các nguyên tắc đã được tuyên bố trong Hiến chương Liên Hợp Quốc và các văn kiện quốc tế khác, sự công nhận nhân phẩm vốn có và các quyền không thể chia cắt và bình đẳng tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.

Nhận thức nghĩa vụ của các quốc gia theo Hiến chương, đặc biệt là tại điều 55, thúc đẩy sự tôn trọng rộng rãi và tuân thủ các quyền và tự do cơ bản của con người.

Quan ngại sâu sắc rằng tại nhiều quốc gia, thường là một cách phổ biến, xảy ra tình trạng người bị cưỡng bức mất tích, theo nghĩa những người này bị bắt, bị giam giữ hay bị bắt cóc trái với ý chí của họ hoặc bị tước đoạt tự do bởi các viên chức thuộc các ngành hoặc các cấp khác nhau của Chính phủ, hoặc bởi những nhóm có tổ chức hay các cá nhân đóng vai trò đại diện cho hoặc được sự ủng hộ, một cách trực tiếp hay gián tiếp, sự đồng thuận hay thừa nhận của Chính phủ, tiếp theo bằng một sự khước từ làm sáng tỏ số phận hay tung tích của những người liên quan hoặc từ chối thừa nhận sự tước bỏ tự do của họ, từ đó đặt những người này ra khỏi vòng bảo vệ của pháp luật.

Xét rằng sự cưỡng bức mất tích làm xói mòn những giá trị sâu sắc nhất của bất cứ xã hội nào mà ở đó cam kết tôn trọng chế độ pháp quyền, quyền con người và các quyền tự do cơ bản và rằng những hành vi mang tính hệ thống như vậy có bản chất của một loại tội phạm chống lại nhân loại.

Nhắc lại nghị quyết số 33/173 ngày 22 tháng 12 năm 1978, trong đó được bày tỏ quan ngại trước những báo cáo từ nhiều khu vực khác nhau trên thế giới liên quan đến các trường hợp cưỡng bức mất tích hoặc không tự nguyện, cũng như về nỗi buồn và sự đau đớn do những trường hợp mất tích này, và kêu gọi các chính phủ buộc các lực lượng an ninh và thi hành pháp luật chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với tình trạng quá đáng này có thể dẫn đến những sự cưỡng bức mất tích và ép buộc. Cũng nhắc lại sự bảo vệ mà các công ước Geneva ngày 12 tháng 8 năm 1949 và các nghị định thư bổ sung của các công ước này năm 1977 dành cho các nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang.

Quan tâm đặc biệt đến các điều của Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, theo đó bảo vệ quyền được sống, quyền tự do và an ninh cá nhân, quyền không bị tra tấn và quyền được thừa nhận là một con người trước pháp luật.

Cũng quan tâm đến Công ước chống tra tấn và đối xử hoặc trừng phạt nhục hình, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm khác, trong đó quy định rằng các Quốc gia thành viên cần thực thi các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và trừng trị những hành động tra tấn.

Ghi nhớ đến bộ quy tắc ứng xử của các viên chức thực thi pháp luật, các nguyên tắc cơ bản về việc sử dụng vũ lực và vũ khí của các viên chức thực thi pháp luật, Tuyên bố về các nguyên tắc công lý cơ bản cho các nạn nhân của vi phạm và sự lạm dụng quyền lực và các nguyên tắc tối thiểu về đối xử đối với các tù nhân.

Khẳng định rằng, để ngăn chặn những sự cưỡng bức mất tích, điều quan trọng là cần phải đảm bảo sự tuân thủ một cách nghiêm ngặt Bộ nguyên tắc về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bất cứ hình thức giam giữ hay cầm tù nào đã được nêu trong phần phụ lục của nghị quyết số 43/173 ngày 9 tháng 12 năm 1988 của nguyên tắc này, và sự tuân thủ các nguyên tắc về việc ngăn ngừa và điều tra hiệu quả đối với những án tử hình tùy tiện và ngoài vòng pháp luật được nêu trong phụ lục của Nghị quyết số 1989/65 ngày 24 tháng 5 năm 1989 của Hội đồng kinh tế xã hội và được chấp thuận của Đại Hội đồng theo nghị quyết số 44/ 1 62 ngày 15 tháng 12 năm 1989.

Ghi nhớ rằng, trong khi những hành vi gây ra sự cưỡng bức mất tích cấu thành một sự vi phạm đối với những quy định cấm trong các văn kiện quốc tế nói trên, song vẫn cần thiết xây dựng một văn kiện mô tả tính chất của tất cả những hành vi gây cưỡng bức mất tích như là những vi phạm rất nghiêm trọng và quy định các tiêu chuẩn nhằm trừng trị và ngăn chặn những hành vi phạm tội này.

1. Thông qua Tuyên bố về bảo vệ tất cả mọi người khỏi sự cưỡng bức mất tích và với tư cách là một bộ những nguyên tắc áp dụng với tất cả các quốc gia;

2. Thúc giục việc thực hiện tất cả các nỗ lực để tuyên bố này được nhận thức và tôn trọng một cách rộng rãi;

Điều 1.

1. Bất cứ hành vi nào gây ra sự cưỡng bức mất tích đều là một sự vi phạm tới nhân phẩm của con người. Hành vi đó bị lên án như là sự phủ nhận những mục tiêu của Hiến chương Liên Hợp Quốc và là sự vi phạm nghiêm trọng và trắng trợn đối với các quyền và tự do cơ bản của con người đã được tuyên bố trong Tuyên ngôn nhân quyền thế giới và đã được tái khẳng định và được phát triển trong các văn kiện quốc tế về lĩnh vực này.

2. Bất cứ hành vi nào gây ra sự cưỡng bức mất tích đều làm cho những người mất tích phải chịu đặt bên ngoài lề sự bảo vệ của pháp luật và gây ra sự tổn thương nghiêm trọng cho họ và gia đình của họ. Hành vi đó cấu thành một sự vi phạm đối với những nguyên tắc của luật quốc tế bảo đảm, một trong số đó, quyền được công nhận với tư cách là một con người trước pháp luật, quyền tự do và an ninh của người đó và quyền không bị tra tấn và bị trừng phạt hoặc đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm khác. Hành vi đó vi phạm hoặc cấu thành sự đe dọa nghiêm trọng đến quyền được sống.

Điều 2.

1. Không quốc gia nào được phép thực hành, cho phép hay dung thứ sự cưỡng bức mất tích.

2. Các quốc gia phải hành động ở cả cấp quốc gia và cấp khu vực và hợp tác với Liên Hợp Quốc đóng góp về mọi mặt nhằm ngăn chặn và loại bỏ sự cưỡng bức mất tích.

Điều 3.

Quốc gia phải thực thi những biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc các biện pháp khác để ngăn chặn và chấm dứt các hành vi gây ra cưỡng bức mất tích trong bất cứ lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình.

Điều 4.

1. Tất cả những hành vi gây ra cưỡng bức mất tích đều bị coi là hành vi phạm tội hình sự bị trừng trị bằng những hình phạt phù hợp có tính đến tính chất hết sức nghiêm trọng của hành vi đó.

2. Các tình tiết giảm nhẹ có thể được xem xét theo luật quốc gia đối với những người tham gia vào các vụ việc cưỡng bức mất tích có đóng góp trong việc mang lại sự sống cho các nạn nhân hoặc tự nguyện cung cấp các thông tin góp phần làm rõ những vụ việc cưỡng bức mất tích.

Điều 5.

Ngoài việc áp dụng những hình phạt hình sự, thủ phạm gây ra vụ việc cưỡng bức mất tích và Quốc gia hoặc cơ quan có thẩm quyền của Quốc gia tổ chức, đồng thuận hay dung thứ cho vụ việc mất tích phải chịu trách nhiệm theo luật dân sự bên cạnh trách nhiệm quốc tế của Quốc gia theo các nguyên tắc của luật quốc tế.

Điều 6.

1. Mệnh lệnh hoặc chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền công cộng, dân sự, quân sự hay cơ quan khác không được viện dẫn nhằm biện minh cho vụ việc cưỡng bức mất tích. Người tiếp nhận mệnh lệnh hoặc chỉ thị như vậy có quyền và nghĩa vụ không tuân thủ mệnh lệnh hoặc chỉ thị đó.

[...]