TUYÊN BỐ
VỀ XÓA BỎ BẠO LỰC VỚI PHỤ NỮ, 1993
(Được thông qua theo Nghị quyết
48/104 ngày 20/12/1993 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc).
Đại Hội đồng,
Ghi nhận sự cấp thiết phải bảo đảm cho phụ nữ những quyền và nguyên tắc về sự
bình đẳng, an ninh, tự do, sự toàn vẹn và phẩm hạnh của tất cả mọi người,
Lưu ý rằng, những quyền và nguyên tắc đó được nêu trong các văn kiện
quốc tế, bao gồm Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người, Công ước quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị, Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ, và Công ước chống tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn
bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục.
Ghi nhận việc thực hiện có hiệu quả Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ sẽ góp phần vào việc xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ, và
rằng, Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ, được nêu trong Nghị quyết này, sẽ
tăng cường và hỗ trợ cho quá trình đó,
Lo ngại rằng, bạo lực với phụ nữ là một trở ngại để đạt được sự bình
đẳng, phát triển và hòa bình như đã được ghi nhận trong Chiến lược Nai-rô-bi vì
sự tiến bộ của phụ nữ, trong đó nêu nhiều biện pháp nhằm chống bạo lực đối với
phụ nữ cũng như việc thực hiện đầy đủ Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ, như đã được khuyến nghị,
Khẳng định rằng bạo lực đối với phụ nữ là sự vi phạm các quyền và tự do cơ
bản của phụ nữ, xâm hại đến hoặc vô hiệu hóa sự thụ hưởng các quyền và tự do đó
của họ, và lo ngại về việc các quyền và tự do đó từ lâu đã không được bảo vệ và
thúc đẩy trong trường hợp bạo lực với phụ nữ,
Ghi nhận rằng, bạo lực với phụ nữ là một biểu hiện trong các quan hệ
không cân bằng về quyền lực giữa nam và nữ mà vốn có trong lịch sử. Những quan
hệ đó dẫn đến sự thống trị và phân biệt đối xử với phụ nữ từ nam giới, ngăn cản
sự phát triển đầy đủ của phụ nữ, và rằng, bạo lực đối với phụ nữ là một trong
những cơ chế xã hội quan trọng, theo đó, phụ nữ bị đẩy vào một vị trí thấp kém
so với nam giới,
Lo ngại rằng, một số nhóm phụ nữ, chẳng hạn như phụ nữ thuộc các nhóm
thiểu số, phụ nữ bản xứ, phụ nữ tỵ nạn, phụ nữ nhập cư, phụ nữ đang sống trong
những cộng đồng nông thôn xa xôi, phụ nữ trong hoàn cảnh bần hàn, phụ nữ trong
các cơ sở hoặc trong nhà giam, trẻ em gái, phụ nữ khuyết tật, phụ nữ cao tuổi
và phụ nữ trong những hoàn cảnh có xung đột vũ trang, là những người đặc biệt
dễ có nguy cơ phải chịu bạo lực,
Nhắc lại kết luận tại khoản 23 trong Phụ lục của Nghị quyết 1990/15 ngày
24/5/1990 của Hội đồng Kinh tế và Xã hội đã ghi nhận rằng, bạo lực đối với phụ
nữ trong gia đình và xã hội diễn ra tràn lan, cần phải có những biện pháp khẩn
cấp và hiệu quả nhằm ngăn không để xảy ra sự phân biệt về thu nhập, giai cấp và
văn hóa giữa nam và nữ,
Cũng nhắc lại Nghị quyết 1991/18 ngày 30/5/1991 của Hội đồng Kinh tế và
Xã hội, trong đó Hội đồng khuyến nghị về việc xây dựng dự thảo một văn kiện
quốc tế nhằm giải quyết triệt để vấn đề bạo lực đối với phụ nữ.
Hoan nghênh vai trò của các phong trào phụ nữ trong việc thu hút sự chú
ý ngày càng tăng về bản chất, sự nghiêm trọng và phạm vi của vấn đề bạo lực đối
phụ nữ.
Báo động rằng, những cơ hội cho phụ nữ để đạt được sự bình đẳng về pháp
lý, xã hội, chính trị và kinh tế trong xã hội bị hạn chế, bởi bạo lực với họ
vẫn đang tiếp diễn và chưa chấm dứt,
Tin tưởng rằng, trước tình hình trên, cần thiết phải có một định nghĩa rõ
ràng và toàn diện về bạo lực đối với phụ nữ, một tuyên bố rõ ràng về các quyền
được áp dụng nhằm đảm bảo việc xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ dưới mọi hình
thức, một cam kết của các quốc gia về trách nhiệm của họ, một cam kết của cộng
đồng quốc tế nói chung nhằm xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ,
Trịnh trọng thông qua, Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ dưới đây, và kêu
gọi thực hiện mọi nỗ lực để Tuyên bố này được phổ biến và tôn trọng rộng rãi:
Điều 1.
Trong phạm vi của Tuyên bố này thuật ngữ “bạo lực” đối với
phụ nữ có nghĩa là mọi hành vi bạo lực trên cơ sở giới tính dẫn đến hoặc có thể
dẫn đến sự xâm hại về thể chất, tình dục hoặc tâm lý hoặc sự đau khổ cho phụ nữ
kể cả việc đe dọa có những hành vi như vậy, việc cưỡng đoạt hoặc tước đoạt vô
cớ tự do của phụ nữ, cho dù diễn ra trong đời sống công cộng hoặc riêng tư.
Điều 2.
Bạo lực đối với phụ nữ sẽ được hiểu là bao gồm, và không chỉ
giới hạn, ở những vấn đề dưới đây:
1. Bạo lực về thể chất, tình dục và tâm lý diễn ra trong gia
đình, kể cả đánh đập, hành hạ, xâm hại tình dục trẻ em gái trong gia đình, bạo
lực liên quan đến của hồi môn, hiếp dâm vợ, cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ, và các
tập tục truyền thống khác có hại cho phụ nữ, bạo lực với người chưa phải là vợ,
và bạo lực liên quan đến bóc lột;
2. Bạo lực về thể chất, tình dục và tâm lý diễn ra
trong cộng đồng nói chung; kể cả hiếp dâm, xâm hại tình dục, quấy rối và hăm
dọa tình dục ở nơi làm việc trong các cơ sở giáo dục và những nơi khác buôn bán
phụ nữ và cưỡng bức mại dâm,
3. Bạo lực về thể chất, tình dục và tâm lý do
nhà nước thực hiện hoặc được nhà nước bao che và bỏ qua, cho dù xảy ra ở bất kỳ
nơi nào.
Điều 3.
Phụ nữ có quyền được hưởng thụ một cách bình đẳng và được
bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người trong lĩnh vực chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hóa và dân sự hay bất kỳ lĩnh vực nào khác. Những quyền này bao
gồm:
1. Quyền sống;
2. Quyền được bình đẳng;
3. Quyền được tự do và an ninh cá nhân;
4. Quyền được pháp luật bảo vệ bình đẳng;
5. Quyền không bị phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào;
6. Quyền được hưởng tiêu chuẩn cao nhất có thể đạt được về
thể chất và trí tuệ;
7. Quyền có điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi;
8. Quyền không bị tra tấn, hoặc đối xử hay
trừng phạt dã man, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm.
Điều 4.
Các quốc gia cần lên án bạo lực đối với phụ nữ và không được
áp dụng bất kỳ tập quán, truyền thống hay ràng buộc về tôn giáo nào nhằm tránh
những nghĩa vụ của mình về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ. Các quốc gia cần theo
đuổi, thông qua những biện pháp thích hợp và không được trì hoãn, một chính
sách xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ, và nhằm đạt được điều này, cần:
1. Xem xét, trong trường hợp chưa thực hiện, việc phê chuẩn
hoặc gia nhập Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ, hoặc rút những bảo lưu trong Công ước đó;
2. Không can dự vào các hành động bạo lực đối với phụ
nữ;
3. Không ngừng ngăn chặn điều tra và, phù hợp với luật pháp
quốc gia, trừng trị những hành vi bạo lực đối với phụ nữ cho dù những hành vi
đó do cơ quan nhà nước hay cá nhân thực hiện
4. Ban hành những chế tài hình sự, dân sự lao động và hành
chính trong luật pháp quốc gia nhằm trừng trị và xử lí những việc làm sai phạm
với những phụ nữ là nạn nhân của bạo lực, những phụ nữ là nạn nhân của bạo lực
cần được tạo điều kiện tiếp cận các cơ chế tư pháp và, theo quy định của pháp
luật, những biện pháp giải quyết công bằng và hiệu quả đối với những thiệt hại
mà nó phải hứng chịu; các quốc gia cũng cần thông tin cho phụ nữ về những quyền
của họ nhằm tìm kiếm sự bồi thường thông qua những cơ chế như vậy;
5. Xem xét khả năng phát triển các kế hoạch hành động nhằm
thúc đẩy sự bảo vệ phụ nữ trước bất kỳ hình thức bạo lực nào, hoặc lồng ghép
những quy định nhằm mục đích đó và các kế hoạch hiện hành, xem xét, trong
trường hợp thích hợp, sự hợp tác từ các tổ chức phi chính phủ, đặc biệt là
những tổ chức quan tâm đến vấn đề bạo lực đối với phụ nữ;
6. Phát triển, theo một phương thức toàn diện, các phương
pháp phòng ngừa và tất cả những biện pháp mang tính pháp lý, chính trị, hành
chính và văn hóa nhằm thúc đẩy sự bảo vệ phụ nữ trước mọi hình thức bạo lực, và
đảm bảo rằng không để tái diễn việc phụ nữ trở thành nạn nhân do pháp luật
thiếu nhạy bén với những vấn đề về giới, các quy chế thực hiện hoặc các hình
thức can thiệp khác;
7. Hành động nhằm đảm bảo đến mức tối đa có thể được trong
phạm vi nguồn lực sẵn có của mình và, trong trường hợp cần thiết, trong phạm vi
khuôn khổ hợp tác quốc tế rằng những phụ nữ phải chịu bạo lực và, trong trường
hợp thích hợp với cả con cái họ, được trợ giúp đặc biệt, như phục hồi trợ giúp
chăm sóc và nuôi dưỡng con cái, đối xử, tư vấn và các dịch vụ, có các cơ sở và
chương trình y tế và xã hội cũng như các cơ cấu trợ giúp, cũng như cần thực
hiện tất cả các biện pháp thích hợp khác nhằm thúc đẩy sự an toàn và phục hồi
về thể chất và tâm lý của họ;
8. Bổ sung vào ngân sách của chính phủ những nguồn lực sẵn
có phục vụ cho những hoạt động liên quan đến việc xóa bỏ bạo lực đối với phụ
nữ;
9. Thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo rằng các cán
bộ thực thi pháp luật và công chức nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện các
chính sách để ngăn chặn, điều tra và trừng trị bạo lực đối với phụ nữ được đào
tạo nhằm giúp họ nhạy bén trước những nhu cầu của phụ nữ;
10. Thông qua những biện pháp thích hợp, đặc biệt trong lĩnh
vực giáo dục, nhằm điều chỉnh những mô hình ứng xử về xã hội và văn hóa của nam
và nữ, và để xóa bỏ những định kiến, tập quán và tất cả những tập tục khác dựa
trên quan điểm trọng hay khinh đối với cả hai giới, và dựa trên những định kiến
mang tính khuôn mẫu về vai trò của nam và nữ;
11. Thúc đẩy việc nghiên cứu, thu thập dữ liệu và tổng
hợp số liệu đặc biệt liên quan đến bạo lực trong gia đình, đến sự phổ biến các
hình thức bạo lực khác nhau đối với phụ nữ, khuyến khích nghiên cứu về những
nguyên nhân, bản chất, sự nghiêm trọng và hậu quả của bạo lực đối với phụ nữ và
về hiệu quả của những biện pháp được thực hiện nhằm ngăn chặn và xử lý bạo lực
đối với phụ nữ; những số liệu và kết quả nghiên cứu phải được công bố công
khai;
12. Thông qua các biện pháp nhằm xóa bỏ bạo lực
đối với phụ nữ, những người đặc biệt có nguy cơ chịu bạo lực;
13. Bổ sung, khi đệ trình các báo cáo theo yêu cầu của các
văn kiện nhân quyền liên quan của Liên Hợp Quốc, những thông tin liên quan đến
bạo lực đối với phụ nữ và những biện pháp được thực hiện nhằm thực hiện Tuyên
bố này;
14. Khuyến khích phát triển những hướng dẫn thích hợp nhằm
hỗ trợ thực hiện các nguyên tắc được nêu trong Tuyên bố này;
15. Ghi nhận vai trò quan trọng của phong trào phụ nữ và các
tổ chức phi chính phủ trên toàn thế giới trong việc nâng cao nhận thức và xóa
bỏ vấn đề bạo lực đối với phụ nữ;
16. Tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của phong trào phụ
nữ và các tổ chức phi chính phủ, và hợp tác với họ ở cấp địa phương quốc gia và
khu vực;
17. Khuyến khích các tổ chức liên chính phủ khu vực mà họ là
thành viên đưa vấn đề xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ vào các
chương trình, nếu thích hợp.
Điều 5.
Các tổ chức và các cơ quan chuyên môn trong hệ thống của
Liên Hợp Quốc, trong phạm vi từng lĩnh vực chức năng của mình, cần góp phần vào
sự công nhận và thực hiện các quyền và nguyên tắc được nêu trong Tuyên bố này
và, để đạt được mục tiêu này, cần:
1. Thúc đẩy sự hợp tác quốc tế và khu vực nhằm xác
định những chiến lược khu vực để chống bạo lực, trao đổi kinh nghiệm và tài trợ
cho các chương trình liên quan đến việc xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ;
2. Tổ chức các hội nghị và hội thảo nhằm tạo và nâng cao
nhận thức cho mọi cá nhân về vấn đề xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ;
3. Tăng cường sự phối hợp và trao đổi trong khuôn khổ hệ
thống của Liên Hợp Quốc, giữa các cơ quan giám sát các điều ước quốc tế về nhân
quyền, nhằm giải quyết một cách có hiệu quả vấn đề bạo lực đối với phụ nữ;
4. Bổ sung vào những phân tích do các tổ chức và cơ quan
trong hệ thống Liên Hợp Quốc soạn thảo những xu hướng và vấn đề xã hội, chẳng
hạn như những báo cáo định kỳ về tình hình xã hội trên thế giới, đánh giá về
những xu hướng bạo lực đối với phụ nữ;
5. Khuyến khích sự phối hợp giữa các tổ chức và cơ quan
trọng hệ thống Liên Hợp Quốc lồng ghép vấn đề bạo lực đối với phụ nữ vào các
chương trình hiện hành, đặc biệt liên quan đến các nhóm phụ nữ đặc biệt có nguy
cơ chịu bạo lực;
6. Thúc đẩy việc xây dựng những hướng dẫn hoặc cẩm nang liên
quan đến bạo lực đối với phụ nữ, xem xét những biện pháp được nêu trong Tuyên
bố này;
7. Xem xét vấn đề xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ, nếu thích
hợp, trong việc hoàn thành các nghĩa vụ thực hiện các văn kiện quốc tế về nhân
quyền;
8. Hợp tác với các tổ chức phi chính phủ trong
việc giải quyết vấn đề bạo lực đối với phụ nữ.
Điều 6.
Không có quy định nào trong Tuyên bố này làm ảnh hưởng đến
những quy định mà tạo điều kiện tốt hơn cho việc xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ.
Những quy định như thế có thể có trong luật pháp của các quốc gia hoặc trong
bất kỳ công ước điều ước hay văn kiện quốc tế nào khác đang được thực thi ở các
quốc gia.