Thứ 7, Ngày 16/11/2024

Tờ trình 3696/TTr-BNN-CB quyết định về cơ chế, chính sách dự trữ, tiêu thụ cà phê gắn với sản xuất do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành

Số hiệu 3696/TTr-BNN-CB
Ngày ban hành 10/11/2010
Ngày có hiệu lực 10/11/2010
Loại văn bản Văn bản khác
Cơ quan ban hành Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Người ký Cao Đức Phát
Lĩnh vực Doanh nghiệp,Thương mại

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------

Số: 3696/TTr-BNN-CB

Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2010

 

TỜ TRÌNH

QUYẾT ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH DỰ TRỮ, TIÊU THỤ CÀ PHÊ GẮN VỚI SẢN XUẤT

Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Điều 6 Quyết định 481/QĐ-TTg ngày 13/4/2010 về hỗ trợ thu mua tạm trữ cà phê niên vụ 2009/2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng dự thảo cơ chế, chính sách nhằm tăng khả năng dự trữ cà phê, đảm bảo xuất khẩu có lợi cho nền kinh tế; kiểm soát giá xuất khẩu cà phê, nhất là đối với giá các hợp đồng, giao hàng tương lai và kỳ hạn; kiểm soát, ngăn ngừa hiện tượng ép giá thu mua, hạ giá khi xuất khẩu làm thiệt hại thu nhập của người trồng cà phê và lợi ích đất nước; hỗ trợ được trực tiếp cho người trồng cà phê khi có rủi ro về thị trường và giá cả.

Tổng hợp, tiếp thu ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xin kính trình Thủ tướng Chính phủ cơ chế, chính sách đối với ngành cà phê gồm những nội dung sau:

1. Sự cần thiết ban hành Quyết định

Việt Nam hiện là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới, với diện tích trên 500.000 ha, hàng năm cho sản lượng trên dưới 1 triệu tấn nhân. Hơn 90% sản lượng cà phê phục vụ xuất khẩu, tiêu thụ nội địa chỉ ở mức dưới 10% (khoảng 70.000 tấn). Từ năm 2004 trở lại đây, ngành cà phê đã có bước tiến đáng kể, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 483 triệu USD (năm 2000) lên 734 triệu USD (năm 2005), đạt kỷ lục 2,1 tỷ USD (năm 2008) và ước trên 1,6 tỷ USD năm 2010. Với giá trị tổng sản lượng chiếm khoảng 2% GDP, ngành cà phê đã có đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của đất nước, là nguồn thu nhập chủ yếu của 540.000 hộ gia đình nông dân trồng cà phê và hơn 1,6 triệu lao động, góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị - xã hội tại các tỉnh Tây nguyên, miền núi.

Tuy nhiên cho đến nay, mặc dù là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới, nhưng Việt Nam không có khả năng chi phối, ngược lại rất bị động trước các thay đổi của thị trường thế giới; luôn đứng trước nguy cơ khủng hoảng khi có biến động bất lợi về thị trường, giá cả. Qua nhiều cuộc hội thảo, hội nghị nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này được chỉ ra như sau:

(1) Ngành cà phê chưa thiết lập được hệ thống sản xuất, kinh doanh mang tính chuyên nghiệp.

Điển hình, hàng năm nước ta xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn cà phê nhân tới 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 10 nước là bạn hàng lớn, qua 26 đầu mối của hãng và doanh nghiệp nước ngoài mua trực tiếp cà phê Việt Nam, nhưng trong nước có đến 168 doanh nghiệp xuất khẩu, trong đó chỉ có khoảng 20 doanh nghiệp xuất khẩu với khối lượng tương đối lớn.

(2) Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh cà phê Việt Nam còn thấp, thể hiện ở các mặt:

- Năng lực tài chính: Các doanh nghiệp không đủ nguồn lực để thu mua dự trữ cà phê chờ thời điểm có lợi để bán ra. Đầu vụ, các doanh nghiệp bán ồ ạt để lấy tiền trả nợ, có tháng bán ra đến 200.000 tấn, trong khi nhu cầu cà phê Robusta của thị trường chỉ trong khoảng 80.000 – 100.000 tấn/tháng. Đây là cơ hội cho 12 nhà nhập khẩu và 8 nhà rang xay lớn ép giá. Cũng từ sự thiếu hụt về vốn, các doanh nghiệp Việt Nam thường thực hiện hợp đồng mua bán cà phê theo nguyên tắc “trừ lùi”, khi gặp phải tình trạng giá giảm liên tục, nhiều doanh nghiệp đã thua lỗ, không được ngân hàng cho vay vốn.

- Bên cạnh một số ít doanh nghiệp chủ động đầu tư, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, còn khá nhiều doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến chất lượng và sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng. Việc áp dụng hệ thống các tiêu chuẩn kỹ thuật trong giao dịch mua bán hàng hóa không được thực hiện nghiêm túc từ chính trong các doanh nghiệp.

- Các hoạt động mở rộng thị trường cà phê rang xay, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý đối với cà phê còn hạn chế, trong đó tính chuyên nghiệp, kiến thức thị trường trong quá trình hội nhập của các doanh nghiệp rất yếu.

(3) Thiếu sự liên kết trong sản xuất – chế biến và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp và nông dân.

Mối liên hệ giữa các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cà phê với nhau; giữa doanh nghiệp và nông dân hết sức lỏng lẻo, thiếu sự chia sẻ thông tin, không thống nhất được với nhau về phương thức tiêu thụ, giá cả, thường xuyên xảy ra tình trạng tranh mua, tranh bán ngay trên “sân nhà” và bị các khách hàng ép giá. Nông dân chủ yếu là hộ sản xuất nhỏ lẻ, không có người đại diện hợp pháp cho quyền lợi, nên rất khó hưởng sự hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước khi có rủi ro.

Vì vậy, việc xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách dự trữ, tiêu thụ cà phê là hết sức cần thiết.

2. Quan điểm soạn thảo Quyết định

- Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản có giá trị xuất khẩu lớn và liên quan đến cuộc sống của hàng trăm nghìn hộ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là Tây Nguyên. Do đó cần có những chính sách hỗ trợ thỏa đáng đảm bảo an sinh xã hội, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng tại các địa bàn chiến lược của đất nước.

- Với lượng cà phê robusta lớn nhất thế giới, cần phải chủ động điều tiết tiêu thụ trên thị trường bằng các chính sách phù hợp, không vi phạm các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.

3. Quá trình soạn thảo Quyết định

Ngày 15/4/2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao Cục Chế biến Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, tổng hợp tình hình thực tế, xây dựng dự thảo Quyết định.

Tháng 6/2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam tổ chức Hội thảo góp ý dự thảo Quyết định. Hội thảo có sự tham gia của các đại biểu đại diện các Bộ ngành, doanh nghiệp và thu được nhiều ý kiến đóng góp xác đáng.

Ngày 08/7/2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã gửi bản dự thảo đến các Bộ, ngành, cơ quan liên quan xin ý kiến đóng góp bằng văn bản. Đến đầu tháng 8/2010, đã nhận được góp ý của các đơn vị gồm: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Công thương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hiệp hội cà phê-ca cao Việt Nam, UBND các tỉnh Đaklak, Gia Lai, Lâm Đồng, Kon Tum.

Tháng 8/2010, cơ quan soạn thảo tiếp thu ý kiến góp ý của các Bộ ngành, hoàn thiện dự thảo, gửi Bộ Tư pháp thực hiện các thủ tục thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ.

4. Bố cục và nội dung chính của Quyết định

4.1. Bố cục:

Quyết định gồm có 9 điều được bố cục như sau:

[...]