BỘ
TÀI CHÍNH-UỶ BAN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT NHÀ NƯỚC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
3-TC/KHKT
|
Hà
Nội , ngày 28 tháng 1 năm 1984
|
THÔNG TƯ LIÊNTỊCH
SỐ 3-TC/KHKT NGÀY 28 THÁNG 1 NĂM 1984 HƯỚNG DẪN CỦA BỘ TÀI
CHÍNH - UỶ BAN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT NHÀ NƯỚC CHẾ ĐỘ TRÍCH LẬP VÀ SỬ DỤNG CÁC QUỸ
TRONG CÁC CƠ QUAN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ TRIỂN KHAI KỸ THUẬT
Thực hiện Nghị quyết số 51-HĐBT
ngày 17-5-1983 của Hội đồng Bộ trưởng về việc cho các cơ quan nghiên cứu khoa học
và triển khai kỹ thuật thực hiện chế độ hạch toán kinh tế và thực hiện hợp đồng
kinh tế trong nghiên cứu - triển khai được thành lập các quỹ phát triển khoa học
- kỹ thuật, quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng, liên Bộ Tài chính - Uỷ ban Khoa học
và kỹ thuật Nhà nước hướng dẫn việc lập và sử dụng các quỹ nói trên như sau:
I. MỤC ĐÍCH CỦA
VIỆC LẬP CÁC QUỸ
Việc lập và sử dụng các quỹ phát
triển khoa học - kỹ thuật, quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng nhằm những mục đích
sau:
1. Thúc đẩy và khuyến khích các
cơ sở nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật từng bước áp dụng và hoàn thiện
chế độ hạch toán kinh tế phù hợp với đặc điểm hoạt động khoa học kỹ thuật để
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế của công tác nghiên cứu khoa học và triển
khai kỹ thuật.
2. Thực hiện việc khuyến khích bằng
lợi ích vật chất nhằm động viên cán bộ khoa học - kỹ thuật phấn đấu hoàn thành
tốt kế hoạch nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật.
II. ĐỐI TƯỢNG
ĐƯỢC TRÍCH LẬP QUỸ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - KỸ THUẬT, QUỸ PHÚC LỢI VÀ QUỸ KHEN THƯỞNG
Chế độ trích lập các quỹ phát
triển khoa học - kỹ thuật, quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng được áp dụng cho các
đối tượng dưới đây:
1. Các cơ quan nghiên cứu khoa học
và triển khai kỹ thuật cấp viện hoặc cơ quan tương đương cấp viện có tư cách
pháp nhân (sau đây gọi là cơ quan nghiên cứu và triển khai) thực hiện chế độ hạch
toán kinh tế.
2. Các cơ quan nghiên cứu và triển
khai chưa thực hiện chế độ hạch toán kinh tế chỉ được trích lập 3 quỹ từ các
nguồn sau:
- Thu nhập do thực hiện các hợp
đồng kinh tế đem lại (Quy định ở phần V. Thông tư liên Bộ số 1438-KHKT/TC ngày
19-11-1983 của Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước - Tài chính hướng dẫn thi
hành Quyết định số 175-CP ngày 29-4-1981 của Hội đồng Chính phủ về việc ký kết
và thực hiện hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật).
- Thu nhập do bán sản phẩm sản
xuất thử, phế liệu phế phẩm thu hồi và các dịch vụ khoa học - kỹ thuật.
III. ĐIỀU KIỆN
ĐỂ ĐƯỢC TRÍCH LẬP CÁC QUỸ
1. Đối với các cơ quan thực hiện
chế độ hạch toán kinh tế:
a. Có kế hoạch nghiên cứu khoa học
và triển khai kỹ thuật và kế hoạch tài chính được cơ quan có thẩm quyền duyệt.
b. Có vốn pháp định (vốn cố định
và vốn lưu động).
c. Có định mức kinh tế kỹ thuật.
d. Tổ chức được việc đánh giá và
nghiệm thu các công trình nghiên cứu khoa học và triển khai theo chế độ quy định.
đ. Giá cả sản phẩm được cấp có
thẩm quyền duyệt.
e. Có doanh thu để tự trang trải
chi phí.
g. Có chế độ kết toán phù hợp với
đòi hỏi của hạch toán kinh tế.
Những điều kiện nói trên là yêu
cầu tối thiểu để tổ chức công tác hạch toán kinh tế trong các cơ quan nghiên cứu
và triển khai trong những năm tới. Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước và Bộ
Tài chính sẽ cùng nhau nghiên cứu xây dựng để ban hành chế độ hạch toán kinh tế
ứng dụng trong nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật.
2. Đối với các cơ quan chưa thực
hiện chế độ hạch toán kinh tế:
a. Có kế hoạch nghiên cứu khoa học
và triển khai kỹ thuật và kế hoạch tài chính được cơ quan có thẩm quyền duyệt.
b. Lập dự toán chi phí theo các
định mức tiêu chuẩn chi tiêu do Nhà nước quy định.
Có kế hoạch và biện pháp tiết kiệm
chi, cố gắng khai thác nguồn thu để có điều kiện tăng chi và tạo thêm nguồn tài
chính để trích lập 3 quỹ.
c. Thực hiện đầy đủ các quy định
về kế hoạch hoá khoa học kỹ thuật, chế độ đăng ký đề tài và nghiệm thu các công
trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật và các chế độ lập dự toán, kế toán thống kê
và quyết toán thu chi.
d. Thực hiện nghiêm chỉnh kỷ luật
giá cả và hệ thống giá cả của Nhà nước. Đối với những sản phẩm, các dịch vụ
chưa hoặc không có trong khung giá của Nhà nước thì phải được cơ quan chủ quản
duyệt sau khi thoả thuận với cơ quan giá cả và tài chính cùng cấp (theo quy định
tại mục V, điểm 4B Thông tư liên Bộ Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước - Tài
chính số 1438-KHKT/TC ngày 19-11-1983).
đ. Nộp đầy đủ các khoản nộp (nếu
có) vào ngân sách Nhà nước.
IV. NGUỒN TÀI
CHÍNH ĐỂ TRÍCH LẬP 3 QUỸ
1. Đối với các cơ quan thực hiện
chế độ hạch toán kinh tế, nguồn tài chính để trích lập 3 quỹ là lợi nhuận thực
hiện được sau khi đã làm xong nhiệm vụ nộp ngân sách Nhà nước.
2. Đối với các cơ quan chưa thực
hiện chế độ hạch toán kinh tế, nguồn tài chính để trích lập 3 quỹ là:
a. Thu nhập do ký hợp đồng kinh
tế với các cơ sở sản xuất kinh doanh trong việc nghiên cứu ứng dụng, triển khai
kỹ thuật theo Thông tư liên Bộ số 1438-KHKT/TC ngày 19-10-1983.
b. Thu nhập của một phần giá trị
sau khi đã làm nghĩa vụ với ngân sách (nếu có) của các sản phẩm sản xuất thử,
phế liệu phế phẩm thu hồi.
V. CĂN CỨ ĐỂ
ĐƯỢC TRÍCH LẬP 3 QUỸ VÀ MỨC TRÍCH LẬP CÁC QUỸ
A. Căn cứ để được trích lập:
1. Hoàn thành kế hoạch nghiên cứu
khoa học và triển khai kỹ thuật hàng năm được cấp có thẩm quyền trực tiếp giao,
bao gồm:
a. Các đề tài nghiên cứu, thiết
kế, chế thử và áp dụng vào sản xuất thuộc các chương trình tiến bộ khoa học - kỹ
thuật trọng điểm của Nhà nước hoặc của Bộ, do cơ quan chủ trì hoặc phối hợp
nghiên cứu với các đơn vị khác.
b. Các đề tài nghiên cứu, thiết
kế, chế thử và áp dụng vào sản xuất do cơ quan tự xây dựng trên cơ sở ký hợp đồng
kinh tế với khách hàng, được cơ quan quản lý cấp trên duyệt.
c. Các dịch vụ khoa học - kỹ thuật
trên cơ sở tận dụng thiết bị, lao động sẵn có của đơn vị như sửa chữa, bảo dưỡng
lắp đặt, vận hành thiết bị, khai thác chế biến nguyên vật liệu phục vụ cho công
tác nghiên cứu, gia công chỉnh lý số liệu, hoàn chỉnh thiết kế, thí nghiệm, chế
tạo mẫu...
Việc xét duyệt hoàn thành kế hoạch
nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật phải căn cứ vào những đề tài đã được
đăng ký, các báo cáo kết quả nghiên cứu biên bản, đánh giá và nghiệm thu các
công trình khoa học kỹ thuật (theo quy định tại Quyết định số 282-QĐ ngày
20-6-1980 của Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước).
Nguyên tắc là có hoàn thành kế
hoạch Nhà nước mới được trích lập các quỹ. Nếu không hoàn thành kế hoạch Nhà nước
mà không có lý do chính đáng, nhất là các đề tài nghiên cứu - triển khai thuộc
chương trình tiến bộ khoa học - kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước, thì không được
khen thưởng.
2. Thực hiện chế độ lập dự toán
và quyết toán thu chi theo từng đề tài, từng hợp đồng nghiên cứu, thiết kế, chế
thử và các dịch vụ khoa học kỹ thuật. Sử dụng đúng mục đích dự toán chi đã được
duyệt, thực hiện chi tiêu tiết kiệm, phù hợp với tiến độ thực hiện kế hoạch
nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật.
3. Thực hiện đầy đủ và đúng hạn
việc thu nộp các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước theo chế độ Nhà nước quy định.
B. Mức trích lập các quỹ.
1. Lợi nhuận thu được do thực hiện
các loại hình hợp đồng với khách hàng và số tiền chênh lệch thu lớn hơn chi do
tổ chức sản xuất phụ (nếu có) đem lại được phân phối như sau:
a. 20% nộp ngân sách Nhà nước,
b. 30% cho quỹ phát triển khoa học
- kỹ thuật,
c. 30% cho quỹ khen thưởng,
d. 20% cho quỹ phúc lợi.
2. Số tiền thu được do bán sản
phẩm chế thử, thu về bán phế liệu, phế phẩm trong nghiên cứu triển khai (không
kể nguyên vật liệu không sử dụng đến phải thu hồi theo chế độ quy định) được
phân phối như sau:
a. 20% nộp ngân sách Nhà nước,
b. 30% nộp quỹ phát triển khoa học
- kỹ thuật tập trung của Bộ, Tổng cục.
c. 50% để bổ sung cho 3 quỹ theo
tỷ lệ:
40% cho quỹ phát triển khoa học
- kỹ thuật,
40% cho quỹ khen thưởng,
20% cho quỹ phúc lợi.
3. Đối với các cơ quan nghiên cứu
khoa học và triển khai kỹ thuật thực hiện đề tài trọng điểm của Nhà nước và của
Bộ nếu không có nguồn thu hoặc nguồn thu nhập không đủ để trích tiền thưởng
theo mức được trích 18% thì được cấp cho đủ 18% tổng quỹ lương thực hiện cả năm
để làm quỹ khen thưởng.
4. Mức khống chế tương đối của
quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi.
Để bảo đảm quan hệ hợp lý về chế
độ tiền thưởng của Nhà nước, mức khống chế tương đối của quỹ khen thưởng và quỹ
phúc lợi quy định như sau:
Nếu quỹ khen thưởng và quỹ phúc
lợi trong cả năm của đơn vị được trích theo các mức nói trên cộng lại mà mỗi quỹ
vượt quá 6 tháng lương thực hiện bình quân trong năm của công nhân viên chức
trong danh sách của đơn vị, thì số vượt quá 6 tháng lương (kể từ tháng thứ 7 trở
đi) được phân phối như sau:
a. 50% nộp ngân sách Nhà nước.
b. 20% nộp quỹ phát triển khoa học
- kỹ thuật tập trung của Bộ, Tổng cục.
c. 30% để bổ sung 3 quỹ theo tỷ
lệ:
60% cho quỹ khen thưởng,
20% cho quỹ phúc lợi,
20% cho quỹ phát triển khoa học
- kỹ thuật.
5. Các quỹ nói trên được gửi vào
một tài khoản riêng ở ngân hàng, số kết dư hàng năm được chuyển sang năm sau.
VI. MỤC ĐÍCH
SỬ DỤNG CÁC QUỸ
1. Quỹ phát triển khoa học - kỹ
thuật được dùng vào những công việc sau đây:
- Chế tạo, đổi mới, xây dựng bổ
sung những máy móc thiết bị hoặc công trình phục vụ trực tiếp cho công tác
nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật và tăng cường công tác quản lý.
- Mua sắm thêm máy móc, thiết bị,
tu sửa cơ sở thực nghiệm, xây dựng các công trình nhằm chế thử sản phẩm mới và
sản xuất phụ, cải thiện điều kiện lao động, bảo đảm vệ sinh môi trường, bảo vệ
an toàn lao động.
Quỹ phát triển khoa học - kỹ thuật
thuộc quyền sử dụng của các cơ quan nghiên cứu và triển khai, có thể sử dụng để
thực hiện các hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật.
Hàng năm các cơ quan này phải lập kế hoạch và dự toán sử dụng quỹ nhằm tăng
thêm cơ sở vật chất cho công tác nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật của
cơ quan.
2. Quỹ khen thưởng dùng để khen
thưởng cho cán bộ công nhân viên chức có thành tích trong việc hoàn thành kế hoạch
nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật. Nguyên tắc phân phối tiền thưởng là
dựa vào kết quả lao động cuối cùng của mỗi công nhân viên chức đã đóng góp vào
thành quả chung của cơ quan trong năm kế hoạch.
3. Quỹ phúc lợi dùng để trả tiền
thưởng cho công nhân viên chức nhà ăn, nhà trẻ, bệnh xá theo chế độ chung, cải
thiện điều kiện sinh hoạt và chăm lo sức khoẻ cho công nhân viên chức của cơ
quan và các nhu cầu khác theo hướng dẫn về sử dụng quỹ phúc lợi của Tổng Công
đoàn Việt Nam.
Việc phân phối và sử dụng cụ thể
quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi thực hiện theo chế độ hiện hành áp dụng cho các
đơn vị sản xuất kinh doanh hạch toán kinh tế.
VII. TỔ CHỨC
CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
1. Hàng năm, căn cứ vào sự hướng
dẫn của Tổng cục Thống kê và Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước về công tác
xét duyệt hoàn thành kế hoạch đối với các cơ quan nghiên cứu khoa học và triển
khai kỹ thuật, các cơ quan chủ quản cấp trên thành lập hội đồng xét duyệt hoàn
thành kế hoạch nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật của các cơ quan
nghiên cứu và triển khai trực thuộc. Thành phần hội đồng gồm đại diện của cơ
quan quản lý khoa học kỹ thuật, thống kê, kế hoạch, tài chính và ngân hàng cùng
cấp. Căn cứ vào mức độ hoàn thành kế hoạch khoa học kỹ thuật để quyết định mức
trích lập các quỹ, nếu đơn vị hoàn thành kế hoạch thì được trích lập quỹ theo
các mức cơ bản quy định; nếu do khách quan không hoàn thành kế hoạch thì các quỹ
chỉ được trích theo mức độ thực hiện kế hoạch.
2. Kết thúc năm kế hoạch, các cơ
quan nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật phải lập báo cáo tình hình thực
hiện kế hoạch năm theo các chỉ tiêu quy định của Nhà nước. Trên cơ sở báo cáo của
cơ quan nghiên cứu và triển khai, cơ quan chủ quản cấp trên lập phương án xét
duyệt việc hoàn thành kế hoạch khoa học và kỹ thuật và tạm duyệt cho các cơ
quan nghiên cứu và triển khai được trích lập các quỹ (có sự thoả thuận của cơ
quan tài chính, thống kê và quản lý khoa học và kỹ thuật cùng cấp).
Sau khi tạm duyệt các quỹ, cơ
quan chủ quản thông báo cho cơ quan nghiên cứu và triển khai được tạm trích 75%
số được duyệt để trả thưởng.
Đến đầu năm sau, khi có quyết
toán chính thức, cơ quan chủ quản cấp trên (sau khi có sự thoả thuận bằng văn bản
của cơ quan tài chính cùng cấp) duyệt chính thức chi các quỹ cùng với việc duyệt
quyết toán của cơ quan nghiên cứu và triển khai.
Căn cứ vào mức trích các quỹ được
duyệt, tiến hành việc thanh toán số đã tạm trích, nếu còn thiếu được trích
thêm, nếu thừa phải nộp trả lại ngân sách Nhà nước hoặc trừ vào số trích của
năm sau.
3. Trong quá trình thực hiện kế
hoạch nếu cơ quan nghiên cứu và triển khai vi phạm các chế độ chính sách quản
lý khoa học - kỹ thuật, các chế độ quản lý kinh tế - tài chính của Nhà nước quy
định dưới đây thì cứ mỗi vi phạm tuỳ theo mức độ, bị giảm từ 2 đến 3% số tiền
trích cho các quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi:
- Vi phạm các chế độ quản lý
khoa học - kỹ thuật (chế độ kế hoạch hoá khoa học và kỹ thuật, quản lý các
chương trình tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đăng ký Nhà nước...).
- Làm thiệt hại tài sản, vật tư,
tiền vốn của Nhà nước.
- Vi phạm kỷ luật và chế độ chi
tiêu tài chính.
- Vi phạm chế độ báo cáo kế hoạch,
báo cáo thống kê kế toán và thu nộp ngân sách.
- Để xảy ra tai nạn chết người
do khuyết điểm chủ quan của đơn vị.
4. Các trường đại học và trung học
chuyên nghiệp có đủ điều kiện thực hiện theo Thông tư này thì không áp dụng
Thông tư liên Bộ đại học và trung học chuyên nghiệp - tài chính số 24-TT/LB ngày
16-12-1980.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh và
thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương có thể cho phép các cơ quan nghiên cứu
và triển khai thuộc địa phương được vận dụng các quy định tại Thông tư này. Các
văn bản vận dụng trước khi ban hành cần có sự thoả thuận của Uỷ ban Khoa học và
kỹ thuật Nhà nước và Bộ Tài chính.
5. Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ ngày ký và áp dụng vào việc trích lập các quỹ trong các cơ quan nghiên
cứu và triển khai năm 1983. Các cơ quan nghiên cứu và triển khai đã áp dụng chế
độ trích lập 3 quỹ theo Thông tư này thì không áp dụng chế độ tiền thưởng hoàn
thành kế hoạch công tác cuối năm (10% quỹ lương) theo Quyết định số 198-HĐBT
ngày 15-12-1985 của Hội đồng Bộ trưởng. Riêng năm 1983, những cơ quan nào đã
trích 10% tiền thưởng theo Quyết định số 198-HĐBT thì được trích bổ sung thêm
8% cho đủ 18% quỹ tiền lương phần kế hoạch đề tài của Nhà nước và của Bộ. Những
cơ quan nào trích quá 6 tháng lương, phải nộp lại số tiền đã tính quá theo quy
định ở điểm 4, mục B, phần V của Thông tư này. Những quy định của các ngành,
các cấp về chế độ tiền thưởng, phân phối các quỹ trong các cơ quan khoa học kỹ
thuật từ trước đến nay trái với Thông tư này đều bãi bỏ.
Hàng năm, khi hướng dẫn việc xét
duyệt hoàn thành kế hoạch nghiên cứu khoa học kỹ thuật, nếu cần thiết liên Bộ sẽ
có hướng dẫn sửa đổi bổ sung thêm chế độ cho phù hợp với tình hình hoạt động của
công tác khoa học và kỹ thuật. Trong quá trình thực hiện nếu có gì vướng mắc, đề
nghị các ngành, các cơ quan khoa học kỹ thuật phản ánh về Liên Bộ để nghiên cứu
giải quyết.
Chu
Tam Thức
(Đã
ký)
|
Đặng
Hữu
(Đã
ký)
|