Thông tư liên ngành 01/TTLN năm 1994 hướng dẫn giải quyết các vụ án trọng điểm do Bộ Nội vụ - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 01/TTLN
Ngày ban hành 15/10/1994
Ngày có hiệu lực 15/10/1994
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Cơ quan ban hành Bộ Nội vụ,Tòa án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Người ký
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Trách nhiệm hình sự,Thủ tục Tố tụng

BỘ NỘI VỤ-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-

\VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO-

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 01/TTLN

Hà Nội , ngày 15 tháng 10 năm 1994

 

THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH

CỦA BỘ NỘI VỤ - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO - TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 01/TTLN NGÀY 15-10-1994 HƯỚNG DẪN VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN TRỌNG ĐIỂM

Qua bốn năm thực hiện Thông tư liên ngành số 06/TTLN ngày 12-9-1990 của Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, ba ngành Công an, Kiểm sát, Toà án ở các cấp đã phối hợp tập trung giải quyết nhiều vụ án trọng điểm có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chốn và phòng ngừa tội phạm, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong các hoạt động quản lý kinh tế, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, phục vụ tốt yêu cầu chính trị chung và nhiệm vụ trọng tâm ở địa phương. Tuy nhiên, về nội dung Thông tư số 06/TTLN ngày 12-9-1990 có một số điểm chưa phù hợp với thực tế và việc nhận thức về các nội dung các điểm này ở một số nơi có biểu hiện chưa thống nhất, nên việc phối hợp ba ngành ở địa phương còn bị buông lỏng, kém phát huy hiệu quả trong việc giải quyết các vụ án hình sự.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết các vụ án trọng điểm, tăng cường sự phối hợp trên cơ sở chức năng của từng ngành trong việc điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm, phục vụ yêu cầu chính trị trong tình hình mới đảm bảo tuân thủ các quy định trong Bộ luật hình sựBộ luật tố tụng hình sự, Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao thấy cần thiết phải thay thế Thông tư liên ngành số 06/TTLN ngày 12-9-1990 bằng Thông tư mới với nội dung cụ thể như sau:

I - TIÊU CHUẨN XÁC ĐỊNH CÁC VỤ ÁN TRỌNG ĐIỂM:

Các vụ án trọng điểm là các vụ án mà việc giải quyết các vụ án đó được xác định là quan trọng, lãnh đạo ba ngành Công an, Viện kiểm sát và Toà án có trách nhiệm thống nhất chỉ đạo, ưu tiên sử dụng lực lượng để điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian ngắn nhất, bảo đảm xử lý nghiệm minh, kịp thời chính xác nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương và cả nước. Vì vậy, khi xác định các vụ án trọng điểm phải dựa vào các căn cứ sau đây:

1. Các vụ án trọng điểm là các vụ án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, kinh tế và trật tự an toàn xã hội đã cản trở việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước hoặc gây ảnh hưởng chính trị xấu trong quần chúng nhân dân, dư luận xã hội đòi hỏi phải đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh nhằm đáp ứng yêu cầu chính trị, ngăn chặn tội phạm phát triển, góp phần giải quyết một tình trạng tiêu cực nhất định trong xã hội.

Vụ án trọng điểm không nhất thiết phải là vụ án về tội phạm nghiêm trọng, nhưng nhất thiết phải là vụ án mà việc giải quyết nó có tầm quan trọng nhất định.

Khi xác định các vụ án trọng điểm phải căn cứ vào nhiệm vụ chính trị chung của cả nước được nêu trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ trọng tâm của địa phương vào thời điểm phát hiện tội phạm. Trước mắt phải căn cứ vào Chỉ thị số 60/TW ngày 26-5-1990 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay; Chỉ thị số 135/HĐBT ngày 14-5-1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, Chỉ thị số 15 ngày 20-11-1992 của Bộ Chính trị, Quyết định số 114/TTg ngày 21-11-1992 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 04 của Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 4 về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng và buôn lậu.

2. Căn cứ vào khả năng thực tế trong việc giải quyết các vụ án hình sự của ba ngành để xác định số lượng các vụ án trọng điểm cho phù hợp, tránh khuynh hướng chọn quá nhiều vụ án trọng điểm, không đảm bảo được việc giải quyết các vụ án một cách khẩn trương, thận trọng và chính xác. Đồng thời cũng tránh khuynh hướng cầu toàn để không chọn được, hoặc chọn quá ít các vụ án trọng điểm để giải quyết.

Việc chọn các vụ án trọng điểm do ba ngành Trung ương chỉ đạo cũng phải đảm bảo theo đúng các tiêu chuẩn trên. Vụ án trọng điểm do ba ngành trung ương chọn ở các địa phương phải được coi là vụ án trọng điểm của địa phương. Việc chấp hành chế độ báo cáo của địa phương lên cấp trên phải được chấp hành nghiêm túc, kịp thời.

Ba ngành ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng như ở các huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, cần dựa vào các tiêu chuẩn nêu trên để xác định các vụ án trọng điểm của cấp mình.

II - YÊU CẦU PHẢI ĐẠT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT

các vụ án trọng điểm:

1. Việc giải quyết các vụ án trọng điểm đòi hỏi phải nhanh chóng, kịp thời, chính xác, nên khi vụ án được xác định là trọng điểm thì phải tiến hành điều tra, truy tố, xét xử khẩn trương, giải quyết nhanh gọn, bảo dảm chính xác, đánh trúng bọn tội phạm nguy hiểm, có tác dụng giáo dục, thúc đẩy phong trào quần chúng bảo vệ an ninh chính trị, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị chung và công tác trọng tâm của địa phương.

2. Việc giải quyết các vụ án trọng điểm phải đạt được yêu cầu phòng ngừa cao. Cần phải làm rõ những sơ hở, thiếu sót trong khâu quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội đã dẫn tới phát sinh tội phạm như: trách nhiệm của các ngành chủ quản trong quản lý kinh tế, tài chính, giá cả, quản lý thị trường... trong các khâu quản lý có liên quan đến trật tự xã hội, quản lý vũ khí, quản lý giáo dục đối tượng hình sự... nhất là trách nhiệm của chính quyền cơ sở. Thông qua việc giải quyết các vụ án trên cần vạch trần những âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch, giáo dục tham gia đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đẩy mạnh phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đề xuất phương hướng, biện pháp khắc phục và kiến nghị với các ngành, các cơ quan, các tổ chức xã hội có trách nhiệm để kịp thời sửa chữa những thiếu sót, sai lầm, vi phạm chính sách, pháp luật.

III - VỀ QUAN HỆ PHỐI HỢP BA NGÀNH:

Để đảm bảo các yêu cầu trên đây, ba ngành phải phối hợp chặt chẽ ngay từ đầu cho đến khi vụ án được xét xử xong, cũng như trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa. Việc phối hợp phải trên cơ sở phát huy chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành đã được Bộ luật tố tụng hình sự quy định.

1. Trên cơ sở quản lý các vụ án đã khởi tố, cơ quan Công an hoặc Viện kiểm sát khi phát hiện được vụ án mà thấy cần được xác định là vụ án trọng điểm thì cần phải thông tin kịp thời, trao đổi với nhau để thống nhất quyết định chọn làm vụ án trọng điểm. Đối với các vụ án về các tội phạm trị an và các tội xâm phạm an ninh quốc gia, cơ quan Công an chọn và đề xuất lãnh đạo ba ngành trực tiếp trao đổi thống nhất xác định. Riêng đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia ở mục A, lãnh đạo ba ngành địa phương phải xin ý kiến của cấp Uỷ và báo cáo lãnh đạo ba ngành Trung ương. Đối với các vụ án kinh tế, phục vụ đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu do Viện kiểm sát đề xuất để lãnh đạo ba ngành quyết định. Hàng tháng lãnh đạo ba ngành họp kiểm điểm tiến độ giải quyết và bổ sung danh sách những vụ án trọng điểm mới.

2. Khi vụ án được xác định là vụ án trọng điểm, cơ quan điều tra, kiểm sát điều tra phải có kế hoạch phối hợp công tác với nhau ngay từ khâu điều tra, chú ý phân công Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện công tác điều tra, kiểm sát điều tra có kinh nghiệm và năng lực công tác, có ý thức trách nhiệm, định thời gian hoàn thành hồ sơ.

3. Viện kiểm sát phải tiến hành kiểm sát điều tra thường xuyên, chặt chẽ và tham gia ý kiến kịp thời với cơ quan điều tra để nắm vững diễn biến của cuộc điều tra, nêu những yêu cầu điều tra, thu thập chứng cứ để cơ quan điều tra tiến hành đúng hướng và nhanh chóng. Tuỳ tính chất vụ án mà Viện kiểm sát cần tham gia kiểm sát kịp thời trong những hoạt động tố tụng có tính chất quan trọng như: Khám nghiệm hiện trường, khám xét thu thập vật chứng, yêu cầu trưng cầu giám định tư pháp, sơ kết theo từng giai đoạn điều tra, vạch kế hoạch thực hiện tiếp hướng điều tra đã được xác định.

4. Khi vụ án đã được kết thúc điều tra thì Toà án phải cử Thẩm phán theo dõi để nắm vững nôi dung vụ án, khi cần thiết thì nêu ngay yêu cầu để Viện kiểm sát giải quyết, điều tra bổ sung nhằm phục vụ công tác xét xử được thuận lợi.

Khi hồ sơ đã hoàn thành, Viện kiểm sát phải khẩn trương xây dựng cáo trạng và chuyển hồ sơ cho Toà án để chuẩn bị kịp thời cho công tác xét xử theo đúng thời hạn đã được Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Viện kiểm sát và Toà án cử kiểm sát viên và Thẩm phán có năng lực, có kinh nghiệm để xét xử tại phiên toà, tạo điều kiện để những cán bộ này nắm vững nội dung, tính chất, đặc điểm yêu cầu của vụ án. Đối với những vụ án đặc biệt quan trọng, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát phải trực tiếp giữ quyền công tố tại phiên toà, Chánh án hoặc Phó chánh án Toà án phải trực tiếp làm Chủ toạ phiên toà.

5. Khi chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, để thực hiện tốt hơn những công việc thuộc chức năng của mỗi ngành, Viện kiểm sát và Toà án cần tổ chức cuộc họp trao đổi theo đúng tinh thần Thông tư Liên ngành số 01/TTLN ngày 8-12-1988 của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tuỳ trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ quan điều tra tham dự. Toà án phải có kế hoạch tổ chức tốt phiên toà, đồng thời tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong và sau khi xét xử.

6. Khi thấy trường hợp xét xử các vụ án trọng điểm chưa được thoả đáng, ba ngành cần báo cáo lên cấp trên theo ngành dọc của mình và cần hội ý thống nhất để kịp thời kháng nghị nhằm xét xử lại cho nghiêm minh, chính xác đảm bảo yêu cầu chính trị. Sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, việc thi hành án phải được tiến hành khẩn trương, kiên quyết kể cả về hình phạt chính lẫn hình phạt bổ sung.

7. Về công tác phòng ngừa: trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ, chú ý làm rõ nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm. Ba ngành cần trao đổi thống nhất rút ra những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, Viện kiểm sát có trách nhiệm tập hợp làm kiến nghị yêu cầu cơ quan chủ quản củng cố các mặt quản lý để khắc phục vi phạm.

Sau khi vụ án được xét xử, Toà án có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan (như Tư pháp, các cơ quan ngôn luận v.v...) tuyên truyền phát huy kết quả của việc xét xử nhằm phục vụ tốt công tác phòng ngừa chung.

IV - CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ VÀ CHỈ ĐẠO:

[...]