BỘ
GIÁO DỤC-BỘ NỘI VỤ-BỘ TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
38-TT/LB
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 08 năm 1960
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH THÔNG TƯ SỐ 168-TTG VÀ SỐ 169-TTG NGÀY
04/8/1960 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ MỘT SỐ CHẾ ĐỘ VỚI GIÁO VIÊN DO NHÂN DÂN
ĐÀI THỌ
Ngày 04/8/1960 Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Thông tư số 168-TTg và 169-TTg quy định các chế độ đối với
giáo viên do nhân dân đài thọ. Nay Liên bộ hướng dẫn chi tiết thi hành như sau:
I. MỤC ĐÍCH Ý
NGHĨA.
Quy chế tổ chức trường lớp dân lập
và một số chế độ quy định đối với giáo viên dân lập do Bộ giáo dục ban hành
tháng 8/1957 đã có tác dụng động viên khuyến khích giáo viên dân lập và thúc đẩy
phong trào nhân dân cùng với Nhà nước xây dựng giáo dục.
Ngày nay do yêu cầu mới của cách
mạng, ngành giáo dục phải tận lực phát triển và nâng cao chất lượng các cấp học
phổ thông, tạo điều kiện để có thể phổ cập giáo dục cấp một.
Tính đến nay, số lượng giáo viên
lên đến 34.724 người trong đó có 19.442 giáo viên do nhân dân đài thọ. Hiện nay
số giáo viên này là một lực lượng quan trọng trong ngành đối với sự nghiệp xây
dựng giáo dục.
Nhưng nhận thức chung đối với vị
trí và vai trò của người giáo viên dân lập chưa được đúng và các chế độ ưu đãi
ngộ về vật chất và tinh thần hiện nay còn chênh lệch nhiều so với giáo viên do
ngân sách Nhà nước đài thọ.
Vì vậy, Phủ Thủ tướng ban hành
chính sách để bảo đảm một số quyền lợi và giải quyết bớt các khó khăn hiện tại
cho giáo viên, đồng thời đề cao trách nhiệm của giáo viên nhằm mục đích cổ vũ
giáo viên, cổ vũ nhân dân giáo dục.
II. NHỮNG ĐIỂM
CỤ THỂ.
Trong nhà trường xã hội chủ
nghĩa, nhiệm vụ của giáo viên dân lập và quốc lập đều giống nhau: Ngoài việc
lên lớp giảng dạy, người giáo viên dân lập còn phải lo soạn bài, chấm bài, làm
công tác ngoại khóa, tham gia các mặt công tác xây dựng nhà trường. Người giáo
viên dân lập cũng như người giáo viên quốc lập đều có trọng trách đào tạo thanh
niên thành những người thợ tương lai xây dựng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Nhưng tình hình kinh tế của nước ta hiện nay, cần phải dựa vào dân để
phát triển giáo dục, nên còn có mặt nào đó giáo viên dân lập chưa được đãi ngộ
ngang với giáo viên quốc lập. Tình hình kinh tế ngày càng phát triển, đời sống
của giáo viên nhân dân do nhân dân đài thọ sẽ càng ngày càng được cải thiện
hơn.
Vì vậy, để đãi ngộ về tinh thần,
Thông tư của Phủ Thủ tướng đã quy đinh: “Các quyền lợi về học tập chính trị,
văn hóa, nghiệp vụ của người giáo viên do nhân dân đài thọ được bảo đảm như
giáo viên do ngân sách Nhà nước đài thọ”. Cụ thể là Chính phủ đã đài thọ các
khoản chi phí về đào tạo bao gồm các khoản bồi dưỡng giáo viên, cung cấp chương
trình, tài liệu giáo khoa… để tạo điều kiện và phương tiện cho giáo viên dân lập
giảng dạy như giáo viên quốc lập.
Để đãi ngộ về vật chất,
Thông tư của Phủ Thủ tướng đã quy định : “… Căn cứ vào khả năng tài chính của
Nhà nước và của nhân dân hiện nay, cần thực hiện:
Trước hết cần bảo đảm sinh
hoạt phí tối thiểu của người giáo viên, mức sinh hoạt phí tối thiểu đó vừa nhằm
đãi ngộ thích đáng công sức của người thầy vừa nhằm giữ được quan hệ tốt đối với
những người lao động khác cùng qua một qúa trình đào tạo và có trình độ nghiệp
vụ tương đương. Cần bảo đảm sinh hoạt phí cả trong những tháng nghỉ hè cho giáo
viên trường dân lập.
Đối với những giáo viên đã
công tác lâu năm trong nghề, giáo viên kiêm hiệu trưởng, giáo viên các địa
phương khác đến, mức sinh hoạt phí phải cao hơn, giáo viên dạy toàn cấp hưởng mức
lương cao hơn giáo viên không dạy được toàn cấp”. Cụ thể là:
1. Về mức lương:
Từ trước đến nay, về định
mức lương cho giáo viên cũng đã có nhiều địa phương thực hiện việc trả thù lao
theo lao động, song vì khả năng tài chính của từng nơi nên còn một số địa
phương chưa thực hiện được nguyên tắc trên. Tình trạng bình quân trong việc trả
lương còn khá nặng nề, mức lương qúa thấp còn khá phổ biến, nên cũng cần phải
giải quyết sự chênh lệch qúa xa đó.
Để đạt được yêu cầu trên
đây, Liên bộ quy định mức lương tối thiểu của từng cấp như sau:
GIÁO VIÊN CẤP I
Giáo viên dạy lớp 1, 2 mới
vào được hưởng lương tối thiểu …26 đồng.
Giáo viên dạy lớp 3, 4 mới
vào được hưởng lương tối thiểu …30 đồng.
GIÁO VIÊN CẤP II
Giáo viên không toàn cấp mới
vào được hưởng lương tối thiểu … 35 đồng
Giáo viên toàn cấp mới vào
được hưởng lương tối thiểu … 40 đồng
Trên đây Liên bộ chỉ hướng
dẫn mức lương tối thiểu cho từng loại giáo viên mới vào ngành, coi như còn
trong thời gian tập sự. Đối với cấp I sau một năm học, và đối với cấp II, sau
18 tháng có thể xét để nâng mức lương lên. Mức lương quy định có thể xét để
nâng mức lương tối thiểu, các mức lương khác cho từng loại giáo viên khác nhau
thì từng khu, tỉnh, thành phố sẽ căn cứ vào mức lương đã cấp phát lâu nay, căn
cứ vào tình hình và khả năng tài chính của địa phương, có thể nâng dần lên
nhưng phải nhìn vào khả năng của quỹ học phí, số tiền phải chi trả cho giáo
viên trong toàn năm, nhằm cải tiến thêm một bước đời sống cho giáo viên dân lập
và trả đủ 12 tháng. Cụ thể là:
Đối với các loại giáo viên
các loại giáo viên dân lập toàn cấp và không toàn cấp cũng cần chia thời gian
phục vụ ra từng thâm niên một để đãi ngộ. Việc tính thâm niên trong nghề dạy học
là một tiêu chuẩn trong chính sách tiền lương đối với người giáo viên. Nhưng khả
năng đài thọ của nhân dân có hạn, nên việc áp dụng tiêu chuẩn thâm niên và quy
định mức lương cho từng thâm niên chưa có thể thực hiện như đối với giáo viên
quốc lập. Song bước đầu cũng cần vận dụng phần nào tiêu chuẩn thâm niên để phân
biệt giáo viên đã phục vụ lâu năm trong ngành hay mới vào ngành và để khuyến
khích anh chị em đi sâu vào nghiệp vụ. Ví dụ: mỗi thâm niên quy định là 3 năm,
và mức tăng có thể từ 2đ đến 4đ. Nhưng khi xét thâm niên cần kết hợp xét khả
năng hiện nay, tinh thần và thái độ công tác.
- Đối với giáo viên ở miền
xuôi lên miền núi, giáo viên ở các địa phương sinh hoạt thấp điều động đến những
địa phương sinh hoạt đắt đỏ hơn thì mức lương phải cao hơn giáo viên ở tại địa
phương.
- Đối với giáo viên kiêm
hiệu trưởng, được trả thêm khoản phụ cấp hàng tháng kể cả tháng nghỉ hè và tùy
theo trường hợp lớn nhỏ mà quy định như quyết định số 273-QĐ ngày 1/7/1960 của
Bộ giáo dục, vì thực chất những hiệu trưởng dân lập này cũng làm nhiệm vụ như
hiệu trưởng là giáo viên quốc lập.
Hiệu trưởng được hưởng phụ
cấp phải là những giáo viên có quyết định chính thức của Ty. Đối với miền xuôi,
trường nhỏ phải có từ 3 lớp trở lên. Đối với miền núi, trường nhỏ phải có từ 2
lớp trở lên, hiệu trưởng mới được hưởng phụ cấp.
2. Việc trợ cấp của Chính
phủ:
Thông tư Phủ Thủ tướng
quy định: “Trường hợp có địa phương qũy học phí không đủ trả lương cho giáo
viên hoặc gặp lụt, bão, hạn hán… ảnh hưởng đến việc thu học phí thì Chính phủ sẽ
xét trợ cấp”.
Theo tinh thần trên, ở đây
cần phân biệt hai trường hợp:
a) Có địa phương qũy học
phí đã tận thu rồi mà không đủ trả lương cho giáo viên thì bắt đầu từ niên khóa
1960-1961 này Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố có kế hoạch chỉ đạo
các khu, Sở, Ty Giáo dục phân loại giáo viên dân lập, quy định những mức lương
cụ thể cho từng cấp học, các khoản trợ cấp theo lương như phụ cấp hiệu trưởng,
phụ cấp dạy thêm giờ, làm dự trù các khoản thu, chi hàng năm để trình Ủy ban
hành chính khu, tỉnh, thành phố duyệt và giải quyết.
Chú ý: Khoản trợ cấp
này là khoản trợ cấp cho những địa phương mà qũy học phí không đủ trả lương cho
giáo viên.
b) Đối với những địa
phương gặp lụt, bão, hạn hán… ảnh hưởng lớn đến việc thu học phí, như không thu
được, hoặc chỉ thu được một ít, hoặc chỉ thu được độ 2/3, trong khi đó phải bảo
đảm đủ lương cho giáo viên thì Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố xét từng
trường hợp cụ thể để giải quyết.
Chú ý: Khoản trợ cấp này
là khoản trợ cấp đặc biệt, công qũy phải đài thọ tương đối nhiều, bất thường.
Cả hai trường hợp trên,
theo nguyên tắc phân cấp đặc biệt, các khoản trợ cấp này đều do ngân sách khu,
tỉnh, thành phố đài thọ.
3. Chế độ bảo hiểm xã hội,
phúc lợi:
Đối với các quyền lợi về bảo
hiểm xã hội và phúc lợi đã ghi trong chính sách như: nằm bệnh viện, thai sản,
mua hàng bán cung cấp, hưởng trợ cấp khó khăn cho gia đình đông con, hưởng sinh
hoạt phí khi đi học, miễn dân công, hưởng phụ cấp giữ trẻ và mất sữa, thì giáo
viên dân lập được hưởng như giáo viên quốc lập.
Để thi hành đúng tinh thần
Thông tư của Phủ Thủ tướng và để phù hợp với tình hình của giáo viên dân lập,
Liên bộ quy định.
- Chế độ nằm bệnh viện:
Giáo viên dân lập được khám bệnh, chữa bệnh như giáo viên quốc lập, khám bệnh,
chữa bệnh như giáo viên quốc lập, được hưởng tiền thuốc, tiền bồi dưỡng do bệnh
viện cung cấp, cơ quan giáo viên công tác sẽ thanh toán với bệnh viện. Trong
lúc giáo viên đi nằm bệnh viện, giáo viên vẫn được hưởng lương và có nhiệm vụ
trả đủ số tiền ăn cho bệnh viện. Thời gian được trả nguyên lương sẽ căn cứ vào
thời gian công tác trong ngành của người giáo viên và khả năng đài thọ của qũy
dân lập quy định.
Bộ giáo dục sẽ nghiên cứu
hướng dẫn sau khi các chế độ bảo hiểm xã hội được ban hành.
- Chế độ thai sản: Nữ giáo
viên dân lập được hưởng chế độ thai sản như nữ giáo viên quốc lập (2 tháng nghỉ
đẻ có lương và các khoản phụ cấp về sinh đẻ như tiền bồi dưỡng và phụ an phí).
- Chế độ mai táng phí :
Khi chết, giáo viên dân lập sẽ được hưởng khoản phụ cấp mai táng phí như đối với
giáo viên quốc lập. Tuỳ theo thời gian công tác trong ngành, gia đình sẽ được
xét để trợ cấp từ 1 đến 3 tháng lương.
- Chế độ mua hàng bán cung
cấp: Từ nay giáo viên dân lập được các Khu, Sở, Ty Thương nghiệp cấp các loại
phiếu mua hàng như đã cấp cho giáo viên quốc lập.
- Chế độ hưởng sinh hoạt
phí khi đi học: sẽ thi hành như các văn bản của Bộ giáo dục đã quy định cho
giáo viên quốc lập.
- Chế độ hưởng trợ cấp khó
khăn cho gia đình đông con: Những giáo viên có đông con, gia đình gặp nhiều khó
khăn thì được xét để trợ cấp khó khăn khi cần thiết như đối với cán bộ, công
nhân viên trong biên chế Nhà nước.
- Chế độ giữ trẻ và mất sữa:
Nữ giáo viên mất sữa sẽ được hưởng trợ cấp mất sữa như nữ cán bộ, công nhân viên
trong biên chế Nhà nước.
Về tổ chức giữ trẻ, chị em
tự giải quyết là chính, Công đoàn nhà trường và Ban bảo trợ sẽ liên hệ với các
đoàn thể, các hợp tác xã, các tổ chức giữ trẻ ở địa phương để giúp chị em giải
quyết.
- Chế độ dân công: Giáo
viên dân lập được miễn đi dân công.
Các khoản cho phí về bảo
hiểm xã hội và phúc lợi tập thể đối với giáo viên dân lập đều do ngân sách Nhà
nước đài thọ. Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh sẽ căn cứ vào các bản dự
trù của từng địa phương để tính các khoản chi cần thiết và giao cho các cơ quan
có trách nhiệm đảm nhận theo như quy định.
III. CHẾ
ĐỘ THU HỌC PHÍ.
Để bảo đảm được đầy đủ
chính sách lương đối với giáo viên, để tiếp tục đẩy mạnh được phong trào xây dựng
trường sở, để nền giáo dục nước nhà phát triển được tận lực và có kế hoạch, mặt
khác để tránh sự suy bì giữa học sinh trường này và trường khác, Thông tư số
169-TTg ngày 4/8/1960 Phủ Thủ tướng đã quy định chế độ thu học phí thống nhất
cho tất cả các học sinh các trường quốc lập cũng như dân lập cấp I, II, III, có
phân biệt giữa nông thôn và thành thị.
Mức học phí phải phù hợp với
khả năng đóng góp của nhân dân, cán bộ, công nhân, viên chức và có chính sách
miễn giảm đối với con của tử sĩ, liệt sĩ, thương binh, đối với các cháu mà gia
đình nghèo túng đông con.
Để thực hiện được tinh thần
Thông tư trên, Liên bộ hướng dẫn mức học phí tối thiểu và tối đa, thể lệ miễn
giảm, các Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố sẽ tham khảo các mức ấy mà quy
định mức học phí cho sát với tình hình thực tế của địa phương mình, bảo đảm được
chính sách thu học phí và trả lương cho giáo viên.
HỌC PHÍ
Mức phải đóng của một học
sinh ở nông thôn
|
Mức phải đóng của một học
sinh ở thành phố và các thị trấn do địa phương quy định
|
Cấp I từ 0đ50 đến 0đ80
Cấp II từ 1,00 đến 1,50
Cấp III từ 1,50 đến 2,00
|
Cấp I từ 0đ60 đến 1đ00
Cấp II từ 1,20 đến 1,80
Cấp III từ 1,80 đến 2,20
|
THỂ LỆ MIỄN GIẢM
Việc miễn giảm học sinh nhằm
chiếu cố đến những gia đình liệt sĩ, thương binh, mặt khác chiếu cố đến những
gia đình nghèo và gia đình có đông con đi học. Trong khi thực hiện miễn giảm, cần
chú trọng bảo đảm chính sách đối với giáo viên.
Sau đây Liên bộ hướng dẫn
một số nguyên tắc về miễn giảm, các địa phương sẽ dựa vào đó quy định cụ thể
thêm:
- Con liệt sĩ, tử sĩ được
miễn hẳn tiền học.
- Con thương binh, tùy
theo hoàn cảnh gia đình được miễn giảm từ 1/3 đến 1/2 tiền phải đóng.
- Gia đình hiện nay nghèo
túng, hoặc gia đình có từ 3 con trở lên đi học thì được giảm cho mỗi con 1/3 số
học phí.
Tổng số miễn giảm không
qúa 10% đối với tổng số thu.
QUẢN LÝ HỌC PHÍ
Thông tư Phủ Thủ tướng
quy định: “Ban bảo trợ nhà trường giúp Ủy ban hành chính cùng cấp thu và quản
lý qũy tiền học. Việc chi tiêu sẽ do Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố phụ
trách”. Liên bộ giải thích thêm:
Từ trước đến nay các Ban bảo
trợ nhà trường đã giúp cho Ủy ban địa phương cấp mình rất đắc lực trong công
tác thu, phát, đã đem lại nhiều kết quả khá tốt. Tuy vậy cũng có địa phương chi
tiêu quỹ học phí không có kế hoạch (chi nhiều hơn thu như: đem qũy học phí làm
trường, đóng bàn ghế, phát phần thưởng, liên hoan đưa tiễn giáo viên đi công
tác…) làm ảnh hưởng đến việc trả lương cho giáo viên. Đã có địa phương không trả
được lương hè, không bảo đảm được lương hàng tháng cho giáo viên.
Để bảo đảm được việc thu,
chi theo đúng nguyên tắc Bộ Tài chính đã quy định, để thực sự bảo đảm mức lương
đã quy định cho giáo viên dân lập, từ nay Ban bảo trợ nhà trường ngoài nhiệm vụ
tuyên truyền cổ động cho con em đi học, góp ý kiến xây dựng giáo dục ở địa
phương, vận động nhân dân xây dựng trường trại còn có nhiệm vụ giúp Ủy ban hành
chính thu học phí, quản lý qũy học phí để chuyển lên Ủy ban hành chính khu, tỉnh,
thành phố. Các khoản chi sẽ do Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố quyết định.
Qũy tiền học chỉ tập trung
để trả lương cho giáo viên, và từ nay việc trả lương cho giáo viên dân lập, và
từ nay việc trả lương cho giáo viên dân lập, việc chi quỹ học phí sẽ do Ủy ban
hành chính khu, tỉnh, thành phố phụ trách. Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành
phố có nhiệm vụ điều hòa qũy học phí trong khu, tỉnh, thành phố mình, điều
phối giáo viên quốc lập trong toàn tỉnh và toàn ngành phổ thông nhằm giảm nhẹ bớt
sự đóng góp cho những huyện, xã, khu phố có nhiều giáo viên và trường lớp dân lập.
Vấn đề trợ cấp căn cứ vào
dự toán thu và dự toán chi hàng năm cho giáo viên dân lập, do Ty Giáo dục làm
và Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố duyệt. Nếu có trường hợp phải trợ cấp
thì các Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố xét khả năng tài chính của địa
phương mà giải quyết.
IV. NHỮNG
VẤN ĐỀ CẦN PHẢI LÀM ĐỂ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH.
Để việc thực hiện chính
sách đối với giáo viên do nhân dân đài thọ được tốt, cần làm mấy việc sau đây:
1.
Tuyên truyền phổ biến sâu rộng chính sách, cụ thể hóa chính sách ở từng địa
phương và hướng dẫn việc thực hiện.
2.
Kiện toàn tổ chức các trường dân lập, chú trọng kiện toàn tổ chức các Ban bảo
trợ nhà trường. Kiện toàn công tác quản lý thu và chi qũy học phí.
3.
Nghiên cứu kế hoạch điều phối giáo viên quốc lập.
Các vấn đề trên, qua việc
thực hiện quy chế trường dân lập từ hòa bình lập lại, các địa phương đã tổng kết
được rất nhiều kinh nghiệm tốt. Liên bộ yêu cầu các địa phương căn cứ vào những
kinh nghiệm ấy, hướng dẫn thật cụ thể các huyện, xã, khu phố, thị trấn trong việc
thực hiện chính sách. Những kinh nghiệm đã tổng kết được cho ta thấy rằng những
nơi giải quyết chính sách đối với giáo viên được tốt đã chú trọng những điểm
sau đây:
- Tuyên truyền phổ biến
sâu rộng chính sách trong phụ huynh, trong nhân dân, cán bộ cốt cán ở các xã và
khu phố.
- Đặc biệt chú trọng đến
việc củng cố Ban bảo trợ nhà trường, lựa chọn được những đại biểu phụ huynh học
sinh tốt, có uy tín trong quần chúng nhân dân, đồng thời luôn quan tâm đến việc
vận động viên đề cao vai trò của các đại biểu trong Ban bảo trợ.
- Nhà trường phải đóng vai
trò chủ động, tích cực trong việc tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và
chính quyền chú ý giúp Ban bảo trợ làm nhiệm vụ.
- Cần tổ chức quản lý thu
chi tốt, có sổ sách rành mạch, có báo cáo rõ ràng và đúng kỳ hạn với hội nghị
thường kỳ của phụ huynh học sinh và cấp trên.
- Về việc điều phối giáo
viên quốc lập và dân lập, hầu hết các tỉnh đã chú trọng giải quyết, nhưng đầu
năm học này cũng cần phải chú ý hơn nữa, nhằm mục đích điều hòa chất lượng giảng
dạy, đồng thời điều hòa mức đóng góp của nhân dân để bảo đảm việc thực nhiện
chính sách đối với giáo viên.
Riêng đối với giáo viên
dân lập, cần làm cho anh chị em nhận thức rõ sự quan tâm cố gắng của Chính phủ
và nhân dân đối với đội ngũ giáo viên dân lập, ra sức giữ vững và phát triển chất
lượng giảng dạy, luôn gương mẫu, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác
giảng dạy, khắc phục mọi khó khăn để góp phần với giáo viên quốc lập xây dựng
nhà trường xã hội chủ nghĩa, để xứng đáng là người giáo viên ưu tú của chế độ
ta.
Chính sách đối với giáo
viên do nhân dân đài thọ là một chính sách lớn, kết qủa của việc thực hiện có ảnh
hưởng nhiều đến việc phát triển của ngành Giáo dục phổ thông và đến cả sự nghiệp
phát triển Giáo dục nói chung.
Liên bộ yêu cầu Ủy ban
hành chính các cấp, các Khu, Sở, Ty Giáo dục, nghiên cứu kỹ chính sách và Thông
tư hướng dẫn này để chấp hành được tốt.
Trong khi thực hiện chính
sách, nếu gặp những khó khăn gì xin báo cáo ngay cho Liên bộ biết, để có biện
pháp kịp thời.
Đối tượng thi hành: Thông
tư này áp dụng cho tất cả các trường dân lập và quốc lập ở các tỉnh miền xuôi.
Riêng các khu tự trị Thái Mèo, Việt Bắc và các tỉnh miền núi, nơi nào có trường
lớp dân lập đã được Bộ giáo dục cho phép mở tùy theo tình hình của địa
phương đó mà quy định một mức học phí thấp hơn.
BỘ TRƯỞNG
BỘ NỘI VỤ
Phan Kế Toại
|
BỘ TRƯỞNG
BỘ GIÁO DỤC
Nguyễn Văn Huyên
|
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bình
|