Thông tư 895-LĐ-BH năm 1959 Giải thích về chế độ nghỉ hàng năm và nghỉ về việc riêng do Bộ Lao động ban hành
Số hiệu | 895-LĐ-BH |
Ngày ban hành | 10/07/1959 |
Ngày có hiệu lực | 25/07/1959 |
Loại văn bản | Thông tư |
Cơ quan ban hành | Bộ Lao động |
Người ký | Trần Văn Mạc |
Lĩnh vực | Lao động - Tiền lương |
BỘ
LAO ĐỘNG |
VIỆT
|
Số: 895-LĐ-BH |
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 1959 |
GIẢI THÍCH VỀ CHẾ ĐỘ NGHỈ HÀNG NĂM VÀ NGHỈ VỀ VIỆC RIÊNG
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi |
- Các Bộ |
Ngày 21-3-1959 Liên Bộ Nội vụ, Lao động đã ra Thông tư số 14-TT-LB hướng dẫn thi hành nghị định số 028-TTg ngày 28-1-1959 của Thủ tướng Chính phủ. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi đã được các ngành các địa phương phản ảnh những điểm chưa rõ, những mắc mứu cần giải quyết. Sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Nội vụ, Bộ Lao động xin giải thích thêm về những điểm chưa rõ, còn những vấn đề thuộc về chủ trương, chúng tôi sẽ cùng các Bộ có liên quan nghiên cứu và quyết định sau.
Dưới đây là những điểm cần giải thích thêm:
1. ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC NGHỈ HÀNG NĂM
- Điều kiện được hưởng chế độ nghỉ hàng năm là phải đủ 12 tháng liên tục công tác kể từ ngày vào làm việc và năm nào tính dứt năm ấy. Tuy đã đủ điều kiện được hưởng chế độ nghỉ hàng năm rồi nhưng vì để bảo đảm hoạt động bình thường của xí nghiệp, công trường, cơ quan nên thời gian đi nghỉ của công nhân viên chức là do Thủ trưởng đơn vị bố trí sắp xếp. Vì thế có người làm việc đến tháng thứ 16, 17… mới đến lượt đi nghỉ và thời gian đi nghỉ cũng chỉ nghỉ theo số ngày thường lệ đã quy định (10 hay 12 ngày lao động) chứ không phải là căn cứ vào số tháng đã làm việc để tính tỷ lệ số ngày nghỉ. Ví dụ: ông A năm 1959 đủ điều kiện được hưởng chế độ nghỉ hàng năm vì trong năm 1958 đã làm việc liên tục đủ 12 tháng nhưng mãi đến tháng 9-1959 mới đến lượt đi nghỉ thì cũng chỉ nghỉ 10 hay 12 ngày lao động thôi, còn thời gian làm việc năm 1959 sẽ dùng làm cơ sở để tính thời gian liên tục cho việc đi nghỉ hàng năm trong năm 1960. Tháng đi nghỉ của một người không nhất thiết năm nào cũng giống năm nào mà là do lịch của đơn vị nơi làm việc bố trí sắp xếp, có thể mỗi năm đi nghỉ vào mỗi tháng khác nhau.
- Thời gian liên tục công tác là kể những thời gian như sau:
Ngày thực tế lao động, công tác.
Thời gian nghỉ đẻ, nghỉ ốm lẻ tẻ trong năm, nghỉ vì tai nạn lao động, nghỉ hàng tuần, nghỉ lễ, nghỉ hàng năm.
Thời gian đi học các lớp văn hóa, chính trị, chuyên môn.
Ngày đi họp, làm công tác lao động xã hội chủ nghĩa, ngày nghỉ về việc riêng được cơ quan, xí nghiệp, công trường, đồng ý cho phép.
Ngày nghỉ được hưởng cả lương hoặc một phần lương do chế độ đã quy định về ngừng việc.
Thời gian bị đình chỉ công tác hoặc bị bắt giam để chờ Tòa án xét xử nhưng sau được miễn tố hay tha bổng và trở lại làm việc.
- Trường hợp nữ công nhân, viên chức trong một năm nghỉ đẻ 2 tháng, sau khi nghỉ đẻ lại bị ốm nghỉ thêm 2 tháng nữa thì năm đó vẫn được tính để hưởng chế độ nghỉ hàng năm vì thời gian nghỉ về ốm chưa đến 3 tháng. Trường hợp ốm nghỉ lẻ tẻ nhiều lần, tuy cộng lại tới 4 hay 5 tháng, nhưng không nghỉ ốm liền một lần nào đến 3 tháng thì vẫn coi là liên tục công tác.
2. TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC TÍNH CHO NGHỈ THÊM
Đối với công nhân, viên chức hưởng lương công nhật hay lương khoán có gia đình ở xa quá 2 ngày đường kể cả đi lẫn về thì những ngày được nghỉ thêm sẽ được trả lương như trong những ngày làm việc. Trong những ngày nghỉ thêm đó nếu có ngày nào trùng vào ngày chủ nhật thì ngày ấy không trả lương và cũng không được nghỉ bù thêm.
3. THỜI GIAN THI HÀNH CHẾ ĐỘ NGHỈ HÀNG NĂM
Đối với những người đã đi phép từ ngày 28-1-1959 (ngày ký Nghị định 028-TTg của Thủ tướng Chính phủ) trở về đây cách giải quyết đã nói rõ trong Thông tư Liên Bộ Nội vụ, Lao động số 014-LB-TT ngày 21-3-1959. Còn trường hợp những người được xí nghiệp, công trường, cơ quan cho đi phép từ ngày 27-1-1959 trở về trước thì không trừ vào số ngày nghỉ hàng năm, nếu đủ điều kiện vẫn được bố trí cho đi phép nghỉ hàng năm về năm 1959.
Ví dụ:
a) Ông A được xí nghiệp cho đi phép từ ngày 29-1-1959 đến ngày 2-2-1959, nếu về năm 1958 đã đủ tiêu chuẩn 12 tháng liên tục lao động thì được bố trí cho nghỉ hàng năm về năm 1959 là 10 ngày nhưng phải trừ 5 ngày mà Ông A đã nghỉ, như vậy ông A còn được nghỉ 5 ngày nữa về năm 1959.
b) Ông B được công trường đã cho đi nghỉ phép từ ngày 22-12-1958 đến ngày 5-1-1959 nếu về năm 1958 đã đủ tiêu chuẩn 12 tháng liên tục công tác thì được bố trí cho nghỉ hàng năm về năm 1959 đủ số ngày đã quy định (10 hoặc 12 ngày) không phải trừ.
4. QUYỀN LỢI VỀ CHẾ ĐỘ NGHỈ HÀNG NĂM
Chế độ nghỉ hàng năm ban hành tại Nghị định số 028-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư Liên Bộ Nội vụ, Lao động số 14-LB ngày 21-3-1959 bắt đầu thi hành từ năm 1959, nhưng việc xét cho nghỉ năm nay phải dựa vào thời gian lao động năm 1958, và đến năm 1960 việc xét cho nghỉ phải dựa vào thời gian lao động năm 1959 để tính và xét người nào đủ điều kiện thì người đó sẽ được hưởng quyền lợi về chế độ nghỉ hàng năm. Do đó kể từ 1-1-1959 trở đi đối với những người đã đủ điều kiện được hưởng chế độ nghỉ hàng năm rồi mà thôi việc (xin về sản xuất hoặc chết, v.v…) thì người đó sẽ được thanh toán gọn trả bằng tiền về những ngày được quyền nghỉ hoặc thanh toán cho người được thừa kế do pháp luật đã quy định. Ví dụ: Chị X làm việc ở khu vực I đã liên tục làm việc đủ 12 tháng trong năm 1958 đủ điều kiện để đến năm 1959 hưởng chế độ nghỉ hàng năm là 12 ngày nhưng chưa đến lượt đi nghỉ, đến tháng 5-1959 chị X xin thôi việc về sản xuất; như vậy chị X sẽ được thanh toán 17 ngày (12 ngày về quyền lợi nghỉ năm 1959 vì năm 1958 đã làm việc liên tục đủ 12 tháng và 5 ngày về thời gian lao động 5 tháng trong năm 1959 đáng lẽ để tính và cho nghỉ về năm 1960 nhưng vì chị X thôi việc nên thanh toán ngay cho gọn). Cách thức tính trả lương về những ngày nghỉ hàng năm cho các loại công nhân, viên chức sẽ áp dụng cách trả lương trong những ngày lễ đã quy định ở điều 2, mục A trong Thông tư Liên Bộ Nội vụ, Lao động số 14-TT-LB.
- Đối với công nhân, viên chức nhân dịp nghỉ hàng năm về thăm gia đình hoặc đến một nơi nào để nghỉ ngơi thì chỉ được thanh toán tiền tầu xe, đò, còn tiền phụ cấp đi đường không có vì đó là đi về việc riêng chứ không phải là đi việc công (Trường hợp đi những đoạn đường không có tàu xe Liên bộ đang nghiên cứu).
- Chế độ nghỉ hàng năm không phải
là chế độ nghỉ phép của ngoại kiều về nước thăm quê hương, gia đình. Vì vậy đối
với công nhân, viên chức ngoại kiều cũng áp dụng theo chế độ chung như công
nhân, viên chức của nước Việt