BỘ NỘI VỤ
*******
Số: 30-TC/TT
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
******
Hà Nội, ngày 4
tháng 10 năm 1957
|
THÔNG
TƯ
VỀ
VIỆC ÁP DỤNG CÁC THỂ LỆ BẦU CỬA Ở THÀNH PHỐ
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Kính gửi: Ủy ban Hành chánh
các thành phố Hà Nội, Hải Phòng
Để tăng cưòng chế độ
pháp trị dân chủ, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, bảo đảm việc tổ chức và
lãnh đạo cuộc bầu cử được tốt, Chính phủ đã ban hành Sắc luật 004-SLt ngày 20
tháng 7 năm 1957 và Nghị định số 432-TTg ngày 25 tháng 9 năm 1957 về bầu cử, về
Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp. Việc áp dụng đúng đắn các văn
bản này trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân thành phố sắp tới là rất cần thiết.
Thông tư này hướng
dẫn thực hiện các công tác sau đây nhằm bảo đảm cho cuộc bầu cử tiến hành đúng thể
lệ:
A) Lập danh sách cử
tri.
B) Định các đơn vị
bầu cử, số đại biểu cho mỗi đơn vị và định các khu vực bỏ phiếu.
C) Thành lập Hội đồng
bầu cử, các Ban bầu cử và các Tổ bầu cử.
D) Chuẩn bị vật liệu
cần thiết cho cuộc bầu cử.
A - LẬP DANH SÁCH CỬ
TRI
Lập danh sách cử tri
là một công tác đặc biệt quan trọng vì chỉ những người có tên trong danh sách
cử tri mới có quyền bầu cử. Yêu cầu của công tác là không bỏ sót một người có
quyền bầu cử mà không ghi vào danh sách cử tri và không ghi lầm một người không
có quyền bầu cử vào danh sách ; do đó phân rõ người có quyền bầu cử và người
không có quyền bầu cử, bảo vệ quyền bầu cử thiêng liêng của cử tri, củng cố hơn
nữa nền dân chủ nhân dân chuyên chính.
Ủy ban Hành chính cơ
sở (khu phố, thị trấn, xã), Ban chỉ huy đơn vị quân đội có nhiệm vụ lập danh
sách cử tri.
I
- Kế hoạch, phương pháp tiến hành:
1 - Đối với cử tri
nhân dân:
Ở các khu phố, hộ
tịch viên dựa vào những nguyên tắc quy định về tư cách cử tri và những tài liệu
(quản lý hộ khẩu) lập danh sách cử tri từng tổ dân phố theo mẫu đã quy định
nhưng chưa cần sắp xếp theo thứ tự A, B, C. Sau đó Ủy ban Hành chính khu phố
hay Ban đại diện hành chính khu phố tập trung các tài liệu đó, thẩm ra lại, lập
danh sách cử tri theo thứ tự A, B, C, theo khu vực bỏ phiếu và theo mẫu đã định
rồi đem niêm yết ở những nơi công cộng trong các khu vực bỏ phiếu.
Ở các xã ngoại thành,
xã nào có hộ tịch viên thì hộ tịch viên làm danh sách cử tri từng xóm đưa xuống
xóm để nhân dân thảo luận tham gia ý kiến ; xã nào không có hộ tịch viên,
Trưởng xóm hay Công an xóm làm nhiệm vụ này. Sau đó Ủy ban Hành chính xã tập trung
các tài liệu đó thẩm tra lại, lập danh sách cử tri theo thứ tự A, B, C, theo
khu vực bỏ phiếu và theo mẫu đã định rồi đem niêm yết ở những nơi công cộng
trong các khu vực bỏ phiếu.
Đối với những người
bị tước quyền bầu cử, cũng làm danh sách nhưng không niêm yết.
Ở các thị trấn ngoại
thành kế hoạch cũng tương tự như ở khu phố.
Trong khi tiến hành
lập danh sách cử tri phải làm tốt công tác thẩm tra tư cách cử tri, muốn vậy
phải tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ nhân dân tham gia ý kiến ngay từ khi bắt đầu
thu thập các tài liệu.
Khi lập và sao chép
danh sách cử tri phải cẩn thận để không bỏ sót, không ghi trùng, không được
nhầm lẫn tên, họ (tên đọc giống nhau mà chữ viết không giống nhau) và nhất là
không ghi vào danh sách cử tri những người đã bị tước quyền bầu cử. Việc sao
chép danh sách cử tri có thể giao cho những người có trình độ văn hóa, chữ viết
tốt và rõ, có tinh thần trách nhiệm, về chính trị tin cậy được. Số người này
nhiều hay ít, tùy theo yêu cầu cụ thể của xã hay khu phố mà quyết định.
Danh sách cử tri phải
được lập và niêm yết trước ngày bầu cử 40 ngày. Đối với cuộc bầu cử Hội đồng
nhân dân thành phố định vào ngày 24-11-57 thì danh sách cử tri phải niêm yết trước
ngày 16-10-1957.
Khi niêm yết danh
sách cử tri cần phải tuyên truyền rộng rãi và phát động quần chúng xem xét và
thẩm tra danh sách cử tri.
Sau khi đã niêm yết danh
sách cử ri, triệu tập hội nghị cử tri. Hội nghị cử tri của khu phố hay xã tùy
theo sự thuận tiện có thể họp theo xóm, liên xóm, tổ đân phố, tiểu khu hay khu
vực bỏ phiếu.
Trong hội nghị này, đại
diện Ủy ban hành chính xã hay khu phố sẽ căn cứ vào pháp luật trình bày người
có quyền bầu cử, người bị tước quyền bầu cử và công bố danh sách cử tri thuộc
khu vực bỏ phiếu đã ấn định. Nếu có điểm cử tri nghi vấn, phải giải thích ; nếu
có ý kiến khác nhau phải thảo luận và báo cáo lên Ủy ban hành chính xã hay khu
phố giải quyết.
Cũng cần nói danh
sách đã niêm yết ai không đồng ý về điểm nào có quyền gửi giấy khiếu nại đến cơ
quan lập danh sách. Cơ quan lập danh sách phải giải quyết xong việc khiếu nại trong
3 ngày ; nếu người khiếu nại chưa đồng ý về cách giải quyết, có thể khiếu nại lên
Tòa án nhân dân thành phố. Quyết định của Tòa án nhân dân thành phố là quyết
định cuối cùng.
Triệu tập Hội nghị
thanh niên chưa đủ 18 tuổi (chủ yếu là 16, 17 tuổi) tùy theo sự thuận tiện có
thể họp theo xóm, liên xóm, tổ dân phố, tiểu khu hay khu vực bỏ phiếu. Đại diện
Ủy ban hành chính xã hay khu phố nói rõ lý do những thanh nhiên chưa dủ 18 tuổi
tạm thời chưa được quyền bầu cử, đặc biệt nhấn mạnh những người chưa đủ tuổi
bầu cử căn bản không giống những phần tử bị tước quyền bầu cử và động viên họ
tham gia công tác tuyên truyền bầu cử.
Đối với những người
bị tước quyền bầu cử, nên triệu tập họ lại theo đơn vị khu phố hay xã, đại diện
của Ủy ban hành chính xã hay khu phố nói cho họ rõ lý do bị tước quyền bầu cử
và con đường tốt phải theo ; đối với phần tử có hành động xấu phải phê bình,
giáo dục.
MỘT SỐ ĐIỂM CẦN CHÚ Ý
KHI LẬP DANH SÁCH CỬ TRI
a) Về tuổi của cử tri,
chú ý những người xấp xỉ, trên dưới 18 tuổi ; nếu bầu cử 1957, những người từ
18 tuổi trở lên là những người sinh từ năm 1939 trở về trước (nếu tính theo âm
lịch tức là từ ngày 21 tháng 11 năm Kỷ Mão trở về trước). Những người chưa đủ
18 tuổi tức sinh từ năm 1940 trở về sau (nếu tính theo âm lịch tức là từ ngày
22 tháng 11 năm Kỹ Mão trở về sau). Đối với những người không nhớ tuổi và ngày
sinh tháng đẻ sẽ đưa ra nhân dân xóm hay tổ nhận xét.
b) Các cử tri trước ở
địa phương khác nay đến ở thành phố được ghi vào danh sách cử tri thuộc thành
phố khi là một nhân khẩu chính thức của thành phố (theo thể lệ quản lý hộ khẩu)
nơi nào chưa quản lý hộ khẩu sẽ căn cứ vào lời khai của cử tri và của người chứng
nhận, mà định cử tri đó có cư trú ở thành phố hay không.
Nếu các cử tri ở các
địa phương khác đến thành phố chỉ là nhân khẩu tạm trú hoặc ký túc sẽ không ghi
ở danh sách cử tri thuộc thành phố mà sẽ ghi vào danh sách cử tri nơi ở chính.
c) Đối với những
trường hợp vì thiếu tài liệu, chưa thể phân biệt là có quyền bầu cử hay không thì
phải sưu tầm đầy đủ tài liệu rồi mới kết luận. Nếu chưa rõ nguyên tắc giải
quyết những trường hợp phức tạp thì phải hỏi ý kiến cấp trên ; nhưng không nên
vì một trường hợp chưa giải quyết được mà đình chỉ toàn bộ công tác lập danh
sách cử tri.
d) Ủy ban Hành chính
cơ sở, các đơn vị quân đội cần giữ một bản chính danh sách cử tri để làm cơ sở
cho việc lập danh sách cử tri trong các cuộc bầu cử sau.
2 - Đối với cử tri
trong quân đội.
Những quân nhân biệt
phái đi công tác ở ngoài nơi đơn vị mình đóng quân, không ở trong hộ công công
của quân đội sẽ ghi vào danh sách cử tri thuộc khu vực bỏ phiếu nơi mình ở,
những quân nhân công tác ở đơn vị mình, nhưng có tiêu chuẩn ở ngoài doanh trại
sẽ ghi vào danh sách cử tri của quân đội. Những người trong các gia đình quân
nhân ở trong doanh trại nếu đủ điều kiện là cử tri sẽ ghi vào danh sách cử tri
của quân đội. Danh sách cử tri của quân đội chỉ công bố trong đơn vị quân đội.
3 - Đối với cử tri
trong cơ quan.
Cán bộ và công nhân
viên các cơ quan nói chung sẽ ghi vào danh sách cử tri chung với nhân dân. Đối với
một số rất ít cơ quan vì hoàn cảnh công tác và sinh hoạt của cán bộ, công nhân
viên sẽ lập danh sách cử tri riêng.
II
- Kết hợp làm thống kê dân số.
Qua việc làm danh
sách cử tri cần kết hợp làm thống kê dân số. Trong việc lập danh sách cử tri ở
thành phố, các Ủy ban Hành chính cơ sở (khu phố, xã, thị trấn), các ban chỉ huy
đơn vị quân đội đều nắm được tổng số cử tri, tổng số người từ 18 tuổi trở lên mà
không có quyền bầu cử có quyền phân biệt nam nữa, nay cần nắm thêm tổng số nhân
khẩu từ 17 tuổi trở xuống có phân biệt nam nữ.
Bộ Nội vụ sẽ có công
văn hướng dẫn riêng về việc kết hợp làm thống kê dân số trong bầu cử.
B
- ĐỊNH CÁC ĐƠN VỊ BẦU CỬ, SỐ ĐẠI BIỂU CHO MỖI ĐƠN VỊ BẦU CỬ VÀ ĐỊNH CÁC KHU VỰC
BỎ PHIẾU.
I - Định các đơn vị
bầu cử.
Tổ chức bầu cử Hội
đồng nhân dân thành phố theo những đơn vị bầu cử nhỏ nhằm mục đích làm cho cử
tri lựa chọn đại biểu được chính xác. Hội đồng nhân dân thành phố có tiếng nói
của nhân dân các khu vực trong thành phố, đại biểu sát được nhân dân và thu
thập ý kiến nhân dân được dễ dàng việc giám sát của nhân dân đối với đại biểu
được thuận lợi, quan hệ giữa đại biểu và cử tri được mật thiết.
Mỗi đơn vị bầu cử nói
chung nên có từ 3 đến 6 đại biểu.
Đơn vị bầu cử ở nội
thành là khu phố hay liên khu phố, ở ngoại thành là liên xã.
Khi đơn vị bầu cử là
liên khu phố hay liên xã thì không chia một khu phố hay một xã để ghép vào hai
đơn vị bầu cử.
II - Định số đại
biểu.
1) Cách tính số đại
biểu Hội đồng nhân dân thành phố cho toàn thành.
Sắc luật số 004-SLt
về bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp quy định (điều 6): “Hội
đồng nhân dân thành phố: Thành phố từ 60.000 nhân khẩu trở xuống thì bầu cử
50 đại biểu, thành phố trên 60.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 8.000 nhân khẩu
thì thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 100 đại biểu”.
Ủy ban Hành chính
thành phố căn cứ vào số nhân khẩu của thành phố và nguyên tắc trên tính số đại
biểu Hội đồng nhân dân thành phố.
Số nhân khẩu của
thành phố gồm nhân khẩu của nhân dân, nhân khẩu của các đơn vị quân đội, các cơ
quan quân sự, nhân khẩu của các bộ công cộng các cơ quan Dân, Chính, Đảng ở
thành phố. Để tính số nhân khẩu này, Ủy ban Hành chính thành phố sẽ căn cứ vào
báo cáo của Ủy ban Kế hoạch thành phố, con số do Tổng cục Chính trị cung cấp ở
thành phố Hà Nội, báo cáo của các Ban chỉ huy đơn vị quân đội ở các thành phố
khác.
Thí dụ: Số nhân khẩu của
thành phố Hà Nội là 494.277. Trừ số 60.00 nhân khẩu đầu tien được cử 50 đại
biểu còn:
494.277 –
60.000 = 434.277
Số 434.277 còn lại
được cử : đại biểu.
Như vậy tổng cộng số đại
biểu là: 50 + 54 = 104
Nhưng Sắc luật quy
định tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố không được quá 100.
2) Cách tính số đại
biểu Hội đồng nhân dân thành phố cho từng đơn vị bầu cử.
Số nhân khẩu của từng
đơn vị bầu cử gồm nhân khẩu của nhân dân, nhân khẩu của các đơn vị quân đội, cơ
quan quân sự, nhân khẩu của các cơ quan Dân, Chính, Đảng thuộc dơn vị bầu cử đó.
Như vậy, Ủy ban Kế hoạch thành phố, ban chỉ huy đơn vị quân đội thành phố, cơ quan
quân sự phải báo cáo để Ủy ban Hành chính thành phố nắm được số nhân khẩu nhân
dân ở từng khu phố, xã, thị trấn, nhân khẩu của các đơn vị quân đội, cơ quan
quân sự, của các cơ quan Dân, Chính, Đảng và chỗ ở của các đơn vị, cơ quan đó
mới định được đơn vị bầu cử và số đại biểu của các đơn vị bầu cử.
Để tính số đại biểu
Hội đồng nhân dân thành phố cho từng đơn vị bầu cử, nguyên tắc chung là lấy số
nhân khẩu từng đơn vị bầu cử chia cho số nhân khẩu trung bình được cử một đại
biểu.
Ví dụ: Số nhân khẩu của
thành phố Hà Nội là 494.277. Muốn có số nhân khẩu trung bình cử ra một đại biểu
lấy số nhân khẩu của thành phố chia cho số đại biểu của thành phố:
Đối với Hà Nội số đó
là:
Lấy một đơn vị bầu cử
gồm 3 khu phố mà tổng số nhân khẩu là 25.160.
Số đại biểu của đơn
vị bầu cử đó là: đại biểu.
Trên thực tế chia như
vậy sẽ có số dư và sẽ còn một số đại biểu chưa phân phối vào đơn vị bầu cử nào,
nên số đại biểu đó sẽ lần lượt chia thêm cho những đơn vị bầu cử, xét ra cần
thiết để bảo đảm tính chất và thành phần của Hội đồng nhân dân thành phố.
3) Thời gian công bố.
Ủy ban Hành chính
thành phố đề nghị lên Bộ Nội vụ duyệt tổng số hội viên Hội đồng nhân dân thành
phố, các đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân thành phố và số đại biểu của từng đơn
vị bầu cử. Nên đề nghị sớm để có thể chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử có
thể công bố danh sách các đơn vị bầu cử và số đại biểu của từng đơn vị bầu cử.
III - Định khu vực bỏ
phiếu.
Lập các khu vực bỏ
phiếu nhằm mục đích làm cho việc đi bỏ phiếu của cử tri được thuận tiện nhanh
chóng, gọn, tiết kiệm được thì giờ của nhân dân, bảo đảm tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu
cao, bảo đảm không khí tưng bừng phấn khởi của ngày bầu cử. Mỗi khu vực bỏ
phiếu có một phòng bỏ phiếu.
1) Khu vực bỏ phiếu
của nhân dân.
Ở những thị trấn và
khu phố trên 1.000 nhân khẩu thì từ 600 đến 3.000 nhân khẩu lập một khu vực bỏ
phiếu.
Ở những thị trấn và
khu phố dưới 1.000 nhân khẩu thì chỉ có một khu vực bỏ phiếu. Ở các xã: những
thôn dưới 1.000 nhân khẩu thì thành lập một khu vực bỏ phiếu ; những thôn trên
1.000 nhân khẩu thì từ 600 đến 2.000 nhân khẩu thành lập một khu vực bỏ phiếu. Mỗi
khu vực bỏ phiếu gồm một xóm hoặc nhiều xóm.
Mỗi khu vực bỏ phiếu
nhân dân đều nằm trong phạm vi một xã hay một khu phố. Việc lập khu vực bỏ
phiếu phải dựa trên những điều kiện: sinh hoạt cư tú của nhân dân, hoàn cảnh
địa lý, khả năng tổ chức lãnh đạo và khả năng tổ chức ở phòng bỏ phiếu trong ngày
bầu cử.
Tỷ lệ cử tri so với
nhân khẩu trung bình trên dưới 60%. Trung bình một phòng bỏ phiếu có thể phục
vụ khoảng 1.200, 1.300 cử tri bỏ phiếu một ngày, như vậy nghĩa là một khu vực
bỏ phiếu trung bình nên từ 2.000 nhân khẩu trở xuống. Trường hợp phải tổ chức
khu vực bỏ phiếu đến 3.000 nhân khẩu thì phòng bỏ phiếu phải tổ chức thật khoa
học, đảm bảo cho cử tri đi bỏ phiếu được hết và việc kiểm phiếu được chu đáo.
- Ở những bệnh viện,
nhà hộ sinh, an dưỡng đường, nhà nuôi người tàn tật sẽ lập khu vực bỏ phiếu
riêng nhằm mục đích để cho những người vì điều kiện sức khỏe hay tàn tật không
đi được, vẫn có thể bỏ phiếu được, nhưng những khu vực bỏ phiếu này cũng phải
gồm từ 50 cử tri (bệnh nhân, người đẻ, người an dưỡng, người tàn tật) trở lên,
nếu như nhỏ quá, sẽ gây khó khăn cho việc tổ chức bầu cử, việc sơ kết và tổng
kết bầu cử.
Các khu vực bỏ phiếu
nhân dân do Ủy ban Hành chính cơ sở: khu phố, xã, thị trấn ấn định phạm vi, số
hiệu và công bố chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử. Khu vực bỏ phiếu phải
được ấn định sớm để có cơ sở lập danh sách cử tri theo khu vực bỏ phiếu.
Nhưng quy định khu
vực bỏ phiếu là một công việc khó khăn và phức tạp, nên Ủy ban Hành chính thành
phố có nhiệm vụ hướng dẫn cụ thể cho Ủy ban hành chính cơ sở quy định.
2) Khu vực bỏ phiếu
của quân đội.
- Các đơn vị bỏ phiếu
quân đội, cơ quan quân sự sẽ thành lập khu vực bỏ phiếu riêng nhưng vẫn thuộc
đơn vị bầu cử nơi mình đóng quân.
- Khu vực bỏ phiếu
quân đội sẽ từ 50 đến 3.000 nhân khẩu, do ban chỉ huy quân đội thành phố ấn
định phạm vi và số hiệu chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử và phải báo cáo
cho Ủy ban Hành chính thành phố biết.
- Đơn vị quân đội có
dưới 50 nhân khẩu sẽ sát nhập với đơn vị quân đội ở gần nhất cùng một đơn vị bầu
cử để thành khu vực bỏ phiếu có 50 nhân khẩu trở lên.
3) Khu vực bỏ phiếu
của cán bộ công nhân viên một số cơ quan.
Cán bộ công nhân viên
các cơ quan nói chung đều bỏ phiếu ở cùng 1 khu vực bỏ phiếu với nhân dân trừ
một số ít cơ quan vì hoàn cảnh công tác và sinh hoạt của cán bộ, công nhân viên
sẽ thành lập khu vực bỏ phiếu riêng nhưng vẫn thuộc đơn vị bầu cử nơi cơ quan
ở.
- Các khu vực bỏ
phiếu cơ quan ít nhất là 50 cử tri, nhiều nhất là 2.500 cử tri. Các cơ quan
chưa đủ số cử tri để thành lập một khu vực bỏ phiếu riêng, sẽ sát nhập với những
cơ quan khác ở cùng đơn vị bầu cử để thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.
- Các khu vực bỏ
phiếu cơ quan sẽ so Ủy ban Hành chính khu phố hội ý với các thủ trưởng cơ quan
ấn định phạm vi và số hiệu chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử.
C
– THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG BẨU CỬ, CÁC BAN BẦU CỬ, CÁC TỔ BẦU CỬ
Theo Sắc luật 004-SLt
ngày 20-7-1957 về bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp. Hội
đồng bầu cử phải được thành lập chậm nhất 30 ngày trước ngày bầu cử.
Nhưng để cho tổ chức
này có thể làm nhiệm vụ “kiểm tra đôn đốc việc thi hành luật lệ bầu cử ở địa
phương” như đã quy định, nên thành lập tương đối sớm ; khoảng một tháng rưỡi trước
ngày bầu cử. Các ban bầu cử, tổ bầu cử cũng vậy : Ban bầu cử khoảng 30 ngày
trước ngày bầu cử ; tổ bầu cử khoảng 15 ngày trước ngày bầu cử.
Ủy ban Hành chính
thành phố cần tổ chức hội nghị với các đoàn thể, các giới trong thành phố (Đảng
Lao động Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam, Đảng Dân chủ Việt Nam, các đoàn thể:
Thanh niên, Nông hội, Công đoàn, Phụ nữ, đại biểu quân đội, công thương, trí thức,
tôn giáo, văn nghệ sĩ v.v...) để cử các đại biểu vào Hội đồng bầu cử và Ban bầu
cử.
Ủy ban Hành chính khu
phố họp hội nghị với các đoàn thể, các giới trong khu phố đề cử các đại biểu
vào tổ bầu cử.
Sau khi được thành
lập. Hội đồng bầu cử, các ban bầu cử, các tổ bầu cử cần họp để thảo luận về
nhiệm vụ và định chương trình, kế hoạch công tác ăn khớp với công việc chuẩn bị
bầu cử của Ủy ban Hành chính thành phố và phân công cụ thể cho từng đại biểu.
D
- CHUẨN BỊ VẬT LIỆU CẦN THIẾT.
1) Thẻ cử tri, phiếu
bầu cử và giấy tờ cần thiết khác.
Ủy ban Hành chính
thành phố căn cứ vào tổng số cử tri của thành phố để in thẻ cử tri và phiếu bầu
cử. Số thẻ và phiếu bầu cử cần in nhiều hơn tổng số cử tri để phòng phải dùng
thêm.
Cần chú ý là thẻ cử
tri in xong phải được giao cho các cơ quan lập danh sách cử tri biết những điểm
cần thiết vào thẻ trước khi tổ bầu cử phát cho từng cử tri. Vậy thẻ cử tri cần
được in sớm để các công việc trên làm được tốt.
Danh sách cử tri,
danh sách ứng cử, biên bản tổng kết, sơ kết bầu cử cũng cần được tính trước và
đưa in để kịp thời phân phối.
2) Hòm phiếu.
Ủy ban Hành chính
thành phố đặt làm hòm phiếu cho tất cả các khu vực bỏ phiếu. Hòm phiếu cần phải
làm xong 10 ngày trước ngày bầu cử để giao cho các tổ bầu cử.
3) Các vật liệu khác
cần trong lúc bỏ phiếu.
Chuẩn bị trước: giấy,
mực, bút mực, bút chì, hồ dán, giấy thấm, keo, danh ghim, dầu đèn v.v...
4) Phòng bỏ phiếu.
Sau hết, trước ngày
bầu cử, tổ bầu cử có nhiệm vụ thiết lập phòng bỏ phiếu.
Phòng bỏ phiếu có thể
thiết lập ngay ở trụ sở Ủy ban Hành chính khu phố, xã hoặc một nơi trung tâm
trong khu vực bỏ phiếu, miễn là tương đối rộng rãi, thuận tiện cho việc cử tri
đi bầu. Cần báo cho cử tri trong khu vực bỏ phiếu biét nơi và ngày giờ bỏ phiếu
trước ngày bầu cử.
Trước phòng bỏ phiếu
có niêm yết danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu và chỉ dẫn cách thức viết
phiếu bầu cử.
Trong phòng bỏ phiếu,
có thể có những phòng nhỏ kín đáo để cử tri viết phiếu bầu hoặc có thể đặt
những bàn cách xa nhau để cử tri ngồi viết phiếu ở một bàn, không đọc được phiếu
của ngưòi khác ngồi bàn bên cạnh (nếu có điều kiện, mỗi bàn cách xa nhau bằng
một tấm bình phong). Trên mỗi bàn viết phiếu có dán danh sách những người ứng
cử, một giấy chỉ dẫn cách thức viết phiếu bầu và để sẵn bút, mực, giấy thấm.
Hòm phiếu đặt ở nơi
công chúng có thể dễ dàng quan sát được mà cũng tiện cho cử tri sau khi viết
phiếu bầu tới bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Để tránh sự lộn xộn,
mất trật tự, cần bố trí lối vào bỏ phiếu và lối ra riêng.
Ủy ban Hành chính cơ
sở (khu phố, xã) cần hướng dẫn giúp đỡ các tổ bầu cử thiết lập phòng bỏ phiếu.
Bầu cử Hội đồng nhân
dân thành phố lần này là lần đầu tiên và sau khi Chính phủ vừa ban hành những
văn bản mới về thể lệ bầu cử. Cán bộ ít kinh nghiệm, hoặc chưa có kinh nghiệm.
Cần làm cho cán bộ
trực tiếp làm công tác nắm được tinh thần nội dung các công tác đã quy định và
phương pháp thực hiện.
Ủy ban Hành chính
thành phố sẽ tổ chức những hội nghị học tập bồi dưỡng cán bộ trước khi tiến
hành một công tác.
Lại cần có những hội nghị
sơ kết công tác kiểm điểm ưu khuyết điểm, rút kinh nghiệm. Qua những cuộc hội nghị
này có thể uốn nắn những lệch lạc của cán bộ trong công tác, và làm cho việc
chuẩn bị bầu cử được tốt.
Trước ngày bầu cử
khoảng 7 ngày, Ủy ban Hành chính thành phố cần kiểm điểm công tác phục vụ cho
ngày bầu cử đã tiến hành đến đâu, còn phải làm gì trước ngày bầu cử, để động
viên các bộ phận phụ trách, các cán bộ tích cực hoàn thành nhiệm vụ.
Để có thể tiến hành
công tác trong các bước được tốt, Ủy ban Hành chính thành phố nên chỉ đạo riêng
một đơn vị bầu cử ở nội thành và một đơn vị bầu cử ở ngoại thành giúp cho việc
lãnh đạo chung.
|
K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ
NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG
Tô Quang Đẩu
|