Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Thông tư số 29-TTg năm 1962 thi hành Pháp lệnh về tặng thưởng Huân chương và Huy chương Chiến sĩ vẻ vang do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 29-TTg
Ngày ban hành 05/03/1962
Ngày có hiệu lực 20/03/1962
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Văn Đồng
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 29-TTg

Hà Nội, ngày 05 tháng 03 năm 1962 

 

THÔNG TƯ

QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH PHÁP LỆNH VỀ VIỆC TẶNG THƯỞNG HUÂN CHƯƠNG VÀ HUY CHƯƠNG CHIẾN SĨ VẺ VANG

Ngày 12 tháng 9 năm 1961, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ra pháp lệnh đặt huân chương và huy chương Chiến sĩ vẻ vang để tặng thưởng cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang. Pháp lệnh này đã được công bố do lệnh của Chủ tịch nước Việt-nam dân chủ cộng hòa số 52-LCT ngày 16 tháng 9 năm 1961. Thông tư này quy định các chi tiết và thể thức thi hành pháp lệnh ấy:

I. Ý NGHĨA, MỤC ĐÍCH VIỆC KHEN THƯỞNG

Từ ngày hòa bình lập lại, cuộc cách mạng của nhân dân ta ở miền Bắc đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang cũng chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang tiến dần lên chính quy và hiện đại để bảo vệ lãnh thổ của nước Việt-nam dân chủ công hòa, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân miền Bắc, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ và được sự giúp đỡ của nhân dân, Quân đội và Công an nhân dân vũ trang đã lập được nhiều thành tích to lớn.

Để biểu dương những thành tích ấy, Ủy ban thường vụ Quốc hội đặt ra huân chương và huy chương Chiến sĩ vẻ vang để khen thưởng những cán bộ và chiến sĩ đã phục vụ tại ngũ lâu năm, góp phần vào việc xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang. Việc khen thưởng này cũng nhằm đề cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân, phát huy truyền thống tốt đẹp của các lực lượng vũ trang cách mạng, góp phần tích cực của mình hơn nữa vào việc xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy hiện đại, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và hoàn thành tốt mọi công tác của Quân đội và Công an nhân dân vũ trang.

II. ĐỐI TƯỢNG KHEN THƯỞNG

Đối tượng được thưởng huân chương và huy chương Chiến sĩ vẻ vang, theo quy định của pháp lệnh, là cán bộ và chiến sĩ của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang, bao gồm những quân nhân tình nguyện, quân nhân làm nghĩa vụ quân sự, quân nhân đăng lại và quân nhân chuyên nghiệp đang phục vụ tại ngũ, quân nhân đã được phục viên hay chuyển ngành sau thời gian tại ngũ, quân nhân đã chết (quân nhân từ trần và liệt sĩ).

III. ĐIỀU KIỆN KHEN THƯỞNG

Theo pháp lệnh, huân chương và huy chương Chiến sĩ vẻ vang tặng thưởng cho những cán bộ và chiến sĩ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang có đủ những điều kiện như sau:

- Sau ngày 20 tháng 7 năm 1954 đã phục vụ tại ngũ liên tục trong một thời gian nhất định.

- Đã tích cực công tác và học tập, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian tại ngũ.

- Trung thành với cách mạng và không phạm sai lầm lớn trong thời gian tại ngũ cũng như sau khi đã xuất ngũ.

A. Về thời gian phục vụ

Huân chương và huy chương Chiến sĩ vẻ vang tặng thưởng cho những cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ trong từng thời gian nhất định.

1. Đối với những cán bộ và chiến sĩ nhập ngũ trong thời kỳ kháng chiến thì tính thời gian phục vụ để khen thưởng kể từ ngày 21 tháng 7 năm 1954. Đối với những người nhập ngũ sau ngày hòa bình được lập lại thì tính thời gian ấy kể từ ngày nhập ngũ trở đi. Sau mỗi thời hạn 5 năm tại ngũ thì xét khen thưởng một lần.

2. Đối với quân nhân phục vụ theo luật nghĩa vụ quân sự thì căn cứ vào thời gian hoàn thành nghĩa vụ tại ngũ là 2,3 hoặc 4 năm để xét khen thưởng. Việc xét khen thưởng này tiến hành vào lúc sắp xuất ngũ (chuyển sang phục vụ theo chế độ công nhân viên Quốc phòng, đi nhận công tác khác ở các ngành dân chính hoặc về nhà làm ăn).

3. Đối với những quân nhân làm nghĩa vụ quân sự đã hết hạn tại ngũ mà đăng lại thì việc xét khen thưởng lùi lại để làm vào khi nào sắp xuất ngũ. Thời gian phục vụ của các quân nhân này sẽ tính từ ngày nhập ngũ làm nghĩa vụ đến hết thời gian đăng lại.

Đối với những quân nhân làm nghĩa vụ quân sự đã hết hạn tại ngũ mà chuyển sang chế độ quân nhân chuyên nghiệp thì thời gian phục vụ kể từ ngày nhập ngũ làm nghĩa vụ cộng với thời gian chuyển sang làm quân nhân chuyên nghiệp; cứu sau mỗi thời hạn 5 năm thì được xét khen thưởng huân chương một lần.

Đối với những quân nhân nói ở 2 trường hợp trong điểm 3 trên dây mà trong thời gian phục vụ tại ngũ từ 3 đến 4 năm được xếp vào loại giỏi về mọi mặt thì được hưởng huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng 3 ngay lúc hết hạn làm nghĩa vụ quân sự; đến khi đủ thời hạn 5 năm, việc xét thưởng huân chương hạng ba không đặt ra nữa, và đến khi đủ thời hạn 10 năm thì được xét khen thưởng huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhì.

4. Những quân nhân đã phục viên, chuyển ngành có ít nhất là 3 năm công tác trong Quân đội hay trong Công an nhân dân vũ trang, hoặc trong cả hai lược lượng ấy kể từ sau ngày hòa bình lập lại, hoặc có 2 năm và liên tục được bầu là chiến sĩ thu đua của Trung đoàn thì được xét thưởng huy chương Chiến sĩ vẻ vang. Những người có 5 năm công tác trở lên thì được xét khen thưởng huân chương hạng 3; trường hợp chưa đủ 5 năm nhưng có các điều kiện sau đây thì cũng được xét khen thưởng huân chương hạng 3:

- Đã công tác tại ngũ 3 năm và liên tục được bầu là chiến sĩ thi đua của trung đoàn trở lên trong thời gian ấy.

- Đã công tác tại ngũ 3 năm và mỗi năm đều được cấp chỉ huy từ trung đoàn trở lên công nhận là chiến sĩ giỏi.

5. Những cán bộ chiến sĩ tình nguyện, nhân dân chuyên nghiệp; vì nhu cầu công tác đã chuyển ngành, phục vụ viên mà chưa đủ điều kiện thời gian phục vụ để được xét khen thưởng huy chương hoặc huân chương hạng 3, hạng nhì, hạng nhất, nếu về sau được gọi trở lại Quân độ nhân dân và Công an nhân dân vũ trang thì thời gian phục vụ tại ngũ lần trước (tính kể từ ngày 21 tháng 7 năm 1954 nếu đã nhập ngũ từ trong thời kỳ kháng chiến, hoặc kể từ ngày nhập ngũ nếu nhập ngũ sau ngày hòa bình lập lại) được cộng vào thời gian phục vụ tại ngũ lần sau để khi tính khen thưởng.

6. Khi vận dụng tiêu chuẩn về thời gian, nếu thiếu không quá một tháng, thì tùy trường hợp có thể châm chước.

7. Đối với những liệt sĩ đã hy sinh trong chiến đấu hoặc trong công tác, thì vận dụng têu chuẩn về thời gian phục vụ trong việc xét truy tặng huân chương và huy chương như sau:

- Nếu thời gian phục vụ tại ngũ được 2 năm liên tục hoặc chưa được 2 năm nhưng được xếp vào loại giỏi về mọi mặt trong thời gian phục vụ, thì truy tặng huy chương.

[...]