BỘ
NGOẠI THƯƠNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
20-BNgT/XNK
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 12 năm 1986
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ NGOẠI THƯƠNG SỐ 20-BNGT/XNK NGÀY 10-12-1986
HƯỚNG DẪN THI HÀNH BẢN QUY ĐỊNH TẠM THỜI VỀ QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC
ĐƠN VỊ KINH TẾ CƠ SỞ TRONG LĨNH VỰC SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU VÀ XUẤT NHẬP KHẨU
BAN HÀNH THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ 76-HĐBT NGÀY 26-6-1986
Thi hành Quyết định
số 76-HĐBT ngày 26-6-1986 của Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Ngoại thương hướng dẫn thực
hiện quyền tự chủ của các cơ sở kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh
xuất nhập khẩu như sau:
Phần
thứ nhất:
ĐỐI VỚI CÁC CƠ SỞ KINH TẾ
SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU
Ngoài những chính
sách và biện pháp kinh tế đã được quy định tại Quyết định số 177-HĐBT ngày
15-6-1985 của Hội đồng Bộ trưởng về chính sách, biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu và
tăng cường quản lý xuất nhập khẩu, Bộ Ngoại thương hướng dẫn thêm các điểm dưới
đây:
1. Cung ứng vật tư để sản xuất
hàng xuất khẩu và sản xuất nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu.
a) Các cơ sở được giao chỉ tiêu
pháp lệnh sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất nguyên liệu để sản xuất hàng xuất
khẩu đều được Nhà nước cân đối vật tư, nguyên liệu theo định mức kinh tế kỹ thuật
để thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh; các cơ sở do địa phương quản lý (kể cả cá thể)
nếu thiếu lương thực để tiêu dùng trực tiếp đều được cung ứng lương thực theo
quy định.
b) Nhà nước thực hiện chế độ ưu
tiên cung ứng vật tư nguyên liệu cho các cơ sở nói trên; trong điều kiện vật tư
nguyên liệu chưa đủ để đáp ứng mọi yêu cầu thì trước tiên bảo đảm cho nhu cầu sản
xuất hàng xuất khẩu.
Hàng năm, theo đề nghị của Bộ
Ngoại thương, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước lập và công bố danh mục các sản phẩm xuất
khẩu, các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu được ưu tiên cung ứng vật tư nguyên liệu.
Nếu vật tư nguyên liệu thiếu đến
mức không đủ để thực hiện chế độ ưu tiên cung ứng nói trên, cơ sở và ngành cung
ứng vật tư phải kịp thời thông qua Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước báo cáo lên Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng giải quyết.
c) Với số vật tư, nguyên liệu được
cung ứng, cơ sở sản xuất phải ưu tiên bố trí sản xuất hàng xuất khẩu và nguyên
liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu.
2. Sản xuất sản phẩm thay thế
hàng nhập khẩu.
Để khuyến khích đẩy mạnh sản xuất
trong nước và tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu, Nhà nước khuyến khích các cơ sở
kinh tế sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu.
Được coi là sản phẩm thay thế
hàng nhập khẩu khi sản phẩm đó được cơ quan tiêu thụ chấp nhận và sử dụng thay
thế hàng nhập khẩu (hàng thực sự đã phải nhập khẩu theo chỉ tiêu pháp lệnh trước
đó).
Việc sản xuất sản phẩm thay thế
hàng nhập khẩu phải được đăng ký và tổng hợp trong kế hoạch sản phẩm của ngành.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước tổng hợp cân đối các kế hoạch, xác nhận sản phẩm thay
thế hàng nhập khẩu, phân phối với Bộ Ngoại thương quyết định thưởng quyền sử dụng
ngoại tệ cho cơ sở.
Mức thưởng quyền sử dụng ngoại tệ
là 10% số ngoại tệ tiết kiệm được (hiệu số giữa số ngoại tệ đáng lẽ phải chi để
nhập khẩu với số ngoại tệ chi để sản xuất sản phẩm thay thế nếu có); thời gian
thưởng quyền sử dụng ngoại tệ là 2 năm kể từ khi có sản phẩm thay thế hàng nhập
khẩu, tính theo số sản phẩm được sử dụng để thay thế. Cơ sở sản xuất được thưởng
chỉ sử dụng ngoại tệ để đầu tư bổ sung vật tư, nguyên liệu cho sản xuất.
3. Quyền tiếp cận thị trường thế
giới.
Nhu cầu tiếp cận thị trường thế
giới để tiếp thu kỹ thuật, phương pháp sản xuất tiên tiến, nắm bắt nhu cầu, thị
hiếu... là thực sự cần thiết đối với mọi cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu. Việc tiếp
cận thị trường thế giới có thể thực hiện gián tiếp thông qua hoạt động của các
đơn vị xuất nhập khẩu, đồng thời có thể là hoạt động trực tiếp của cơ sở sản xuất
trong tổ chức phối hợp với các đơn vị xuất nhập khẩu, trước hết và chủ yếu đối
với các cơ sở chuyên sản xuất để xuất khẩu, cơ sở có khối lượng hàng xuất khẩu
quan trọng, sản xuất hàng xuất khẩu đòi hỏi quy cách phẩm chất phức tạp.
Việc tiếp cận thị trường thế giới
được thực hiện bằng các hoạt động:
- Cử người và gửi hàng tham gia
các hội chợ triển lãm quốc tế.
- Tham gia giao dịch ký các hợp
đồng xuất khẩu hàng hoá (ở trong nước và ở nước ngoài).
- Đi khảo sát thị trường ngoài
nước.
Mọi chi phí cho việc tiếp cận thị
trường do cơ sở sản xuất chịu và hạch toán vào giá thành theo định mức được duyệt.
Chi phí bằng ngoại tệ do đơn vị
xuất nhập khẩu sản phẩm của cơ sở sản xuất dự trù và được duyệt chung trong định
mức ngoại tệ được chi cho mọi việc đi công tác ở nước ngoài; chi phí này được
dành một tỷ lệ thích đáng để chi cho các cơ sở sản xuất tiếp cận thị trường thế
giới; khi được sử dụng, cơ sở sản xuất chỉ phải chi đồng Việt Nam để mua ngoại
tệ sử dụng theo tỷ giá và các chế độ có liên quan khác của Nhà nước.
4. Quyền trực tiếp kinh doanh xuất
nhập khẩu.
Cơ sở sản xuất là xí nghiệp và
liên hiệp các xí nghiệp quốc doanh Trung ương có đủ các điều kiện dưới đây được
quyền trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu:
a) Có sản phẩm xuất khẩu đạt trị
giá 15 triệu rúp/đôla Mỹ (giá xuất khẩu FOB) trở lên hàng năm, mức này sẽ áp dụng
có phân biệt đối với các cơ sở chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất và gia
công bằng nguyên liệu nhập khẩu hay chủ yếu bằng vật tư, nguyên liệu trong nước.
b) Có điều kiện và khả năng sản
xuất hàng xuất khẩu tương đối ổn định.
c) Có đủ điều kiện về đội ngũ
cán bộ đảm nhiệm công tác ngoại thương.
Trường hợp cơ sở sản xuất là
thành viên của liên hiệp các xí nghiệp đã có tổ chức để trực tiếp kinh doanh xuất
nhập khẩu rồi thì cơ sở không được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu nữa.
Bộ Ngoại thương căn cứ vào đề
nghị của cơ quan chủ quản ra quyết định cho phép cơ sở sản xuất được trực tiếp
kinh doanh xuất nhập khẩu; cơ quan chủ quản ra quyết định thành lập tổ chức xuất
nhập khẩu có tư cách pháp nhân trực thuộc cơ sở sản xuất, tổ chức này phải có
điều kiện hoạt động được Bộ Ngoại thương thừa nhận và đăng ký điều lệ đó tại Bộ
Ngoại thương.
Phần
thứ hai:
ĐỐI VỚI CÁC CƠ SỞ KINH TẾ
KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU
I-
VỀ KẾ HOẠCH HOÁ
1. Giao kế hoạch.
a) Cơ quan chủ quản (Bộ, Uỷ ban
nhân dân tỉnh và tương đương) là cơ quan giao kế hoạch cho đơn vị xuất nhập khẩu
trực thuộc; tuỳ theo tầm quan trọng từng thời kỳ của việc thực hiện một số chỉ
tiêu xuất khẩu và nhập khẩu, Hội đồng Bộ trưởng có thể giao thẳng kế hoạch xuất
nhập khẩu cho một vài đơn vị xuất nhập khẩu trung ương.
Chỉ có cơ quan giao kế hoạch mới
có quyền điều chỉnh kế hoạch.
b) Mỗi đơn vị xuất nhập khẩu đều
được giao hai loại chỉ tiêu kế hoạch:
- Chỉ tiêu pháp lệnh là chỉ tiêu
bắt buộc đơn vị phải hoàn thành trên cơ sở được cấp trên cân đối các điều kiện
vật chất để thực hiện chỉ tiêu đó.
- Chỉ tiêu hướng dẫn là các định
mức để bảo đảm chất lượng trong kinh doanh, bảo đảm tương quan với các cơ sở
kinh tế khác. Chỉ tiêu hướng dẫn cũng bao gồm một số chỉ tiêu kinh doanh khác.
c) Tuỳ theo tính chất, đặc điểm
kinh doanh, mỗi đơn vị xuất nhập khẩu được giao từ 1 đến 3 chỉ tiêu pháp lệnh:
- Tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập
khẩu; ghi bằng 2 loại ngoại tệ theo khu vực thị trường:
Đồng Rúp đối với thị trường xã hội
chủ nghĩa, trong đó ghi cụ thể với thị trường Liên Xô.
Đồng đôla Mỹ đối với thị trường
ngoài xã hội chủ nghĩa trong đó ghi cụ thể kim ngạch với thị trường phải thực
hiện cam kết của Chính phủ.
- Số lượng, khối lượng hoặc giá
trị mặt hàng, nhóm hàng, công trình chủ yếu xuất khẩu và nhập khẩu; ghi rõ từng
khu vực thị trường là thị trường Liên Xô, từng thị trường ngoài xã hội chủ
nghĩa có cam kết của Chính phủ.
- Các khoản nộp ngân sách (gồm lợi
nhuận và các khoản khác đối với ngân sách).
2. Cân đối bảo đảm thực hiện chỉ
tiêu pháp lệnh.
a) Đối với chỉ tiêu pháp lệnh xuất
khẩu.
Nhà nước giao chỉ tiêu cho các
cơ sở sản xuất, kinh doanh ở Trung ương và ở địa phương giao nộp sản phẩm cho
đơn vị xuất nhập khẩu để xuất khẩu.
Trường hợp hàng xuất khẩu do đơn
vị xuất nhập khẩu tổ chức sản xuất gia công thì Nhà nước giao chỉ tiêu vật tư,
nguyên liệu hoặc ngoại tệ để nhập vật tư, nguyên liệu cho đơn vị xuất nhập khẩu.
b) Đối với chỉ tiêu pháp lệnh nhập
khẩu.
Để tránh nhập khẩu lãng phí,
nâng cao trách nhiệm kinh tế của cơ sở trong việc sử dụng hàng nhập khẩu, khắc
phục tình trạng công nợ dây dưa giữa đơn vị chủ hàng nhập khẩu với đơn vị xuất
nhập khẩu, sẽ chuyển sang chế độ uỷ thác nhập khẩu giữa đơn vị chủ hàng trong
nước với đơn vị xuất nhập khẩu; theo chế độ này Nhà nước cấp ngoại tệ (hoặc
phân chia kim ngạch bằng đồng Rúp) cho đơn vị chủ hàng nhập trong nước để đơn vị
này uỷ thác cho đơn vị xuất nhập khẩu mua hàng, đơn vị xuất nhập khẩu được hưởng
phí và hoa hồng theo quy định.
Trong khi chưa thực hiện được chế
độ uỷ thác nói trên, Nhà nước cấp ngoại tệ tư bản (cả tiền hàng, cước vận tải
và phí bảo hiểm) để nhập khẩu hàng hoá từ thị trường ngoài xã hội chủ nghĩa và
giao chỉ tiêu nhập khẩu của từng nước trong khu vực thanh toán bằng đồng Rúp
cho đơn vị xuất nhập khẩu. Căn cứ vào số ngoại tệ tư bản được cấp cả năm, đơn vị
xuất nhập khẩu gửi đến Ngân hàng Ngoại thương kế hoạch sử dụng ngoại tệ từng
quý để Ngân hàng Ngoại thương phục vụ; khi cần sử dụng ngoại tệ theo kế hoạch
mà Ngân hàng Ngoại thương không cấp được ngoại tệ thì đơn vị xuất nhập khẩu được
quyền mua chịu với sự bảo lãnh thanh toán của Ngân hàng Ngoại thương.
Mọi việc nhập khẩu chỉ thực hiện
theo đơn hàng của chủ hàng trong nước và hợp đồng kinh tế ký giữa đơn vị đó với
đơn vị xuất nhập khẩu, trừ trường hợp có chỉ thị của cấp trên.
3. Đơn vị xuất nhập khẩu được tiến
hành kinh doanh bổ sung ngoài chỉ tiêu pháp lệnh theo chế độ đã quy định của
Nhà nước (liên Bộ Ngoại thương - Tài chính). Kế hoạch kinh doanh bổ sung được
phản ánh trong kế hoạch kinh tế thống nhất của đơn vị và được bổ sung khi đơn vị
có khả năng.
II-
VỀ KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU
Quyền tự chủ trong
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của đơn vị xuất nhập khẩu được hướng dẫn
theo 7 vấn đề chủ yếu dưới đây:
1. Mặt hàng.
Để bảo đảm việc bán và mua loại
trừ được đến mức tối đa các yếu tố cạnh tranh, lũng đoạn ở thị trường ngoài nước,
Nhà nước thực hiện chế độ chuyên môn hoá một đầu mối kinh doanh xuất khẩu và nhập
khẩu những mặt hàng hoặc nhóm hàng quan trọng.
Mỗi đơn vị xuất nhập khẩu đều được
giao kinh doanh trong phạm vi một số mặt hàng hoặc nhóm hàng nhất định; trong
những trường hợp riêng biệt bảo đảm được hiệu quả xuất nhập khẩu nói chung, Bộ
Ngoại thương có thể cho phép kinh doanh ngoài phạm vi kể trên.
Với các nước xã hội chủ nghĩa, mặt
hàng xuất khẩu và nhập khẩu phải theo đúng cơ cấu đã quy định trong các cam kết
của Chính phủ, trong phạm vi đó có thể thay đổi chủng loại, cỡ, mã, hoặc mặt
hàng thay thế, nếu được khách hàng chấp nhận và bảo đảm kinh doanh có hiệu quả.
Đối với các nước ngoài xã hội chủ nghĩa nếu có cam kết của Chính phủ cũng áp dụng
như vậy.
Bộ Ngoại thương hướng dẫn các
đơn vị xuất nhập khẩu mở rộng buôn bán với các nước xã hội chủ nghĩa ngoài các
cam kết của Chính phủ.
2. Thị trường và thương nhân.
Đơn vị xuất khẩu được toàn quyền
quyết định không trái với các cam kết của Chính phủ và đường lối kinh tế đối
ngoại của ta do Bộ Ngoại thương hướng dẫn.
3. Giá cả.
Giá cả mua bán với khách hàng nước
ngoài là biểu hiện tập trung hiệu quả xuất nhập khẩu, đồng thời là một trong
các vấn đề cụ thể của chính sách buôn bán với nước ngoài nếu quyền tự chủ của
đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu về vấn đề giá được giới hạn trong việc tuân thủ
quy chế quản lý giá xuất nhập khẩu của Bộ Ngoại thương như sau:
a) Đối với các nước xã hội chủ
nghĩa, theo nguyên tắc tính giá đã thoả thuận với các nước trong Hội đồng tương
trợ kinh tế có tính đến cân đối giá hai chiều giữa hai nước do Bộ Ngoại thương
hướng dẫn và quản lý.
b) Đối với các nước ngoài xã hội
chủ nghĩa, Bộ Ngoại thương công bố danh mục những hàng hoá xuất và nhập khẩu do
Bộ Ngoại thương duyệt giá; tuỳ theo tình hình, phương pháp duyệt giá có thể là
giá từng hợp đồng hoặc giá giới hạn cho từng thời gian.
c) Đối với những mặt hàng không
thuộc danh mục nói trong tiết b, điểm 3, căn cứ vào các thông tin về giá của Bộ
Ngoại thương và các thông tin do đơn vị thu thập được, đơn vị xuất nhập khẩu được
quyền quyết định các giá xuất khẩu và nhập khẩu theo chế độ quản lý giá của Bộ
Ngoại thương.
4. Phương thức kinh doanh và
thanh toán.
a) Đối với thị trường xã hội chủ
nghĩa, do đơn vị xuất nhập khẩu quyết định không trái với các cam kết của Chính
phủ, trong những trường hợp cần thiết thì Bộ Ngoại thương sẽ hướng dẫn.
b) Đối với thị trường ngoài xã hội
chủ nghĩa, dù áp dụng phương thức nào cũng phải thanh toán qua Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam; Bộ Ngoại thương hướng dẫn áp dụng một số phương thức kinh
doanh đặc biệt.
5. Vận tải ngoài nước.
a) Đơn vị xuất nhập khẩu tuân
theo các cam kết của Chính phủ về vận tải; ngoài ra đơn vị phải dành quyền
chuyên chở cả hàng xuất và hàng nhập cho vận tải Việt Nam khi ký kết các hợp đồng
xuất nhập khẩu.
b) Trường hợp quyền chuyên chở
hàng hoá thuộc phía Việt Nam, đơn vị xuất nhập khẩu phải uỷ thác đơn vị môi giới
vận tải biển Việt Nam thuê chuyên chở phù hợp với các điều kiện đã đăng ký
trong hợp đồng mua bán ngoại thương; nếu đơn vị môi giới vận tải biển Việt Nam
không đáp ứng yêu cầu uỷ thác, đơn vị xuất nhập khẩu được quyền tự mình thuê
chuyên chở để bảo đảm thực hiện hợp đồng.
6. Giải quyết việc bồi thường và
đòi bồi thường với nước ngoài.
a) Nếu đơn vị xuất nhập khẩu tự
xét thấy có lỗi trong việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu thì được quyền quyết định
bồi thường trong định mức ngoại tệ dành cho việc bồi thường; trường hợp số tiền
phải bồi thường chiếm trên 5% trị giá hợp đồng thì phải xin ý kiến chỉ đạo của
Bộ Ngoại thương trước khi chấp nhận bồi thường mặc dù quy định mức bồi thường của
đơn vị không thiếu.
Trong trường hợp phải bồi thường
cho khách hàng nước ngoài do lỗi của người sản xuất hàng xuất khẩu thì người sản
xuất phải đền bù lại cho người xuất khẩu.
b) Khi hàng nhập có tổn thất,
đơn vị xuất nhập khẩu phải lập hồ sơ đòi bồi thường ở đối tượng có trách nhiệm;
đồng thời có trách nhiệm bồi thường lại cho chủ hàng trong nước.
c) Để khuyến khích đơn vị xuất
nhập khẩu phấn đấu giảm mức bồi thường hàng xuất khẩu và làm tốt việc đòi bồi
thường hàng nhập khẩu, đơn vị xuất nhập khẩu được thưởng tiền căn cứ số dư định
mức bồi thường hàng xuất và số thu được bồi thường hàng nhập.
7. Đi công tác nước ngoài.
Mỗi đơn vị xuất nhập khẩu đều được
duyệt định mức chi phí bằng ngoại tệ cho việc đi công tác nước ngoài.
Đơn vị xuất nhập khẩu bố trí và
cử cán bộ đi công tác nước ngoài ngắn hạn và dài hạn trong phạm vi định mức ngoại
tệ được duyệt.
Định mức ngoại tệ nói trên bao gồm
một phần dành cho cơ sở sản xuất đã giao hàng cho xuất khẩu để đi công tác nước
ngoài theo tỷ lệ quy định.
III-
VỀ TỔ CHỨC - LAO ĐỘNG - TIỀN LƯƠNG
A. TỔ CHỨC CÁN BỘ.
1. Theo điều lệ mẫu
về tổ chức và hoạt động của các đơn vị xuất nhập khẩu do Hội đồng Bộ trưởng ban
hành, đơn vị xuất nhập khẩu xây dựng điều lệ, tổ chức của mình và đăng ký điều
lệ của đơn vị tại Bộ Ngoại thương.
2. Căn cứ vào điều lệ đăng ký tại
Bộ Ngoại thương trong đó đã quy định rõ bộ máy tổ chức và tiêu chuẩn chức danh
cán bộ, đơn vị xuất nhập khẩu được quyền quản lý toàn diện (tuyển dụng, điều động,
sắp xếp, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quyết định đề bạt, khen thưởng, kỷ luật,
cho thôi việc, cho nghỉ hưu trí...) công nhân viên chức trong đơn vị từ cấp trưởng
phòng hoặc tương đương (nghiên cứu viên, kỹ sư, chuyên viên có mức lương 425 đồng)
trở xuống, và theo quy định phân cấp quản lý cán bộ của cơ quan chủ quản cấp
trên (Bộ, Tổng cục, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc trung
ương) theo đúng đường lối, chính sách cán bộ của Đảng và luật pháp hiện hành của
Nhà nước.
3. Đơn vị xuất nhập khẩu xây dựng
quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho đơn vị, báo cáo lên cơ quan
chủ quản cấp trên để phối hợp với Bộ Ngoại thương và các cơ quan có liên quan
khác tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
4. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm
Giám đốc các đơn vị xuất nhập khẩu được quy định như sau:
- Bộ trưởng Bộ Ngoại thương quyết
định đối với các đơn vị xuất nhập khẩu trực thuộc Bộ Ngoại thương.
- Bộ trưởng Bộ Ngoại thương quyết
định đối với các đơn vị xuất nhập khẩu trực thuộc Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương (tổng công ty, công ty xuất nhập khẩu,
liên hiệp công ty xuất nhập khẩu, công ty liên hiệp xuất khẩu, công ty liên
hiêp xuất nhập khẩu... , trực tiếp hay không trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu)
sau khi trao đổi thoả thuận với Uỷ ban nhân dân chủ quản.
- Bộ trưởng các Bộ, Tổng cục trưởng
các Tổng cục trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng quyết định đối với các đơn vị xuất
nhập khẩu trực thuộc, kể cả đơn vị xuất nhập khẩu trực thuộc cơ sở kinh tế được
trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu, sau khi đã trao đổi nhất trí với Bộ Ngoại
thương.
B. VỀ LAO ĐỘNG - TIỀN LƯƠNG.
1. Đơn vị xuất nhập khẩu căn cứ
vào kế hoạch kinh doanh của đơn vị và dựa trên chế độ thời gian làm việc để xây
dựng các định mức lao động, định mức biên chế cho các bộ phận công tác, trình
cơ quan chủ quản xét duyệt để xác định kế hoạch lao động hàng năm của đơn vị. Định
mức biên chế được xem xét, sửa đổi theo từng thời kỳ lập và điều chỉnh kế hoạch
khi kế hoạch kinh doanh, sản xuất có thay đổi.
2. Căn cứ vào kế hoạch lao động,
đơn vị xuất nhập khẩu được quyền tuyển chọn lao động với số lượng, cơ cấu và
trình độ kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, sức khoẻ đáp ứng yêu cầu kinh doanh
theo quy định của Nhà nước.
3. Đơn vị xuất nhập khẩu có quyền
quyết định các hình thức, tổ chức lao động theo tinh thần giảm nhẹ biên chế để
bảo đảm tốc độ tăng năng suất lao động bình quân nhanh hơn tốc tăng tiền lương
bình quân.
4. Căn cứ vào chính sách và chế
độ tiền lương thống nhất của Nhà nước, căn cứ vào các định mức lao động, tiêu
chuẩn định biên của bộ máy quản lý và cấp bậc công việc hoặc tiêu chuẩn chức
danh viên chức Nhà nước, đơn vị xuất nhập khẩu xây dựng định mức tiền lương cho
một đơn vị ngoại tệ xuất khẩu, nhập khẩu, trình cơ quan chủ quản xét duyệt làm
căn cứ xây dựng quỹ lương kế hoạch trong kế hoạch kinh doanh sản xuất - kỹ thuật
- tài chính - xã hội của đơn vị.
5. Đơn vị xuất nhập khẩu có quyền
lựa chọn hình thức trả lương, trả thưởng thích hợp và có hiệu quả nhất, phù hợp
với đặc điểm kinh doanh của đơn vị theo đúng chế độ, thể lệ hiện hành để khuyến
khích công nhân, viên chức tăng năng suất lao động.
6. Đơn vị xuất nhập khẩu có
trách nhiệm tổ chức hạch toán và phân tích tình hình sử dụng và quản lý lao động,
tiền lương của các tổ chức thuộc đơn vị mình và thực hiện nghiêm chỉnh chế độ
báo cáo thực hiện lao động tiền lương theo quy định của Nhà nước.
Quyền tự chủ của các cơ sở kinh
tế sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu được thực hiện trên cơ
sở " Nhà nước độc quyền ngoại thương, Trung ương thống nhất quản lý công
tác ngoại thương"; còn có một số vấn đề liên quan đến quyền tự chủ của cơ
sở như tài chính, tín dụng, tỷ giá kết hối theo nhóm hàng xuất nhập khẩu, quyền
sử dụng ngoại tệ, phân phối lợi nhuận... sẽ do các cơ quan quản lý có thẩm quyền
tiếp tục hướng dẫn.
Các tổ chức phục vụ xuất nhập khẩu
trực thuộc Bộ Ngoại thương như Công ty giám định hàng hoá xuất nhập khẩu, Tổng
công ty giao nhận kho vận. . . được vận dụng những quy định thích hợp trong
Thông tư này.
Bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở
là vấn đề phải tiến hành trong suốt quá trình đổi mới quản lý; khi thi hành
Thông tư hướng dẫn này nếu gặp khó khăn, đề nghị các cơ sở phản ánh kịp thời với
Bộ Ngoại thương để xem xét giải quyết.