Thông tư 2-TTBC-1984 hướng dẫn Quyết định 79-CT-1984 về việc nhận, gửi bưu phẩm, bưu kiện do Tống Cục Bưu Điện ban hành
Số hiệu | 2-TTBC |
Ngày ban hành | 20/08/1984 |
Ngày có hiệu lực | 20/08/1984 |
Loại văn bản | Thông tư |
Cơ quan ban hành | Tổng cục Bưu điện |
Người ký | Trương Văn Thoan |
Lĩnh vực | Thương mại,Giao thông - Vận tải |
TỔNG
CỤC BƯU ĐIỆN |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2-TTBC |
Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 1984 |
Thi hành Quyết định số 79-CT ngày 27-2-1984 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc nhận gửi bưu phẩm, bưu kiện nhằm ngăn chặn tình trạng lợi dụng đường bưu điện để buôn lậu, trốn thuế, kinh doanh trái phép. Sau khi đã thống nhất ý kiến với Ban quản lý thị trường Trung ương, Tổng cục Bưu điện hướng dẫn một số điểm sau đây:
I. THÔNG BÁO DANH MỤC CÁC MẶT HÀNG CẤM LƯU THÔNG VÀ LƯU THÔNG CÓ ĐIỀU KIỆN:
Theo điều 1 Quyết định số 79-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng:
1. Ban quản lý thị trường Trung ương thông báo cho Tổng cục Bưu điện danh mục những mặt hàng cấm lưu thông và lưu thông có điền kiện. Tổng cục Bưu điện gửi các danh mục này đến các bưu điện tỉnh, thành phố, đặc khu (sau đây gọi tắt là bưu điện tỉnh), kể cả mỗi khi có sự thay đổi.
2. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu thông báo cho các bưu điện tỉnh thuộc quyền những quy định của địa phương về quản lý thị trường đối với những sản phẩm sản xuất tại địa phương, kể cả mỗi khi có sự thay đổi.
3. Giám đốc các bưu điện tỉnh thông báo rộng rãi tại địa phương và niêm yết nơi giao dịch bưu điện những danh mục do Tổng cục và Uỷ ban nhân dân địa phương thông báo như đã nêu ở điểm 1, 2 trên, kể cả mỗi khi có sự thay đổi để mọi người sử dụng bưu điện đều biết.
II. THỦ TỤC NHẬN, CHUYỂN PHÁT BƯU PHẨM, BƯU KIỆN:
Theo điều 2, 3 Quyết định số 79-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quy định về nhận, chuyển, phát bưu phẩm, bưu kiện đựng hàng hoá gửi trong nước, để áp dụng với điều kiện hiện nay, Tổng cục Bưu điện quy định;
1. Tại bưu cục nhận:
Bưu phẩm, bưu kiện trong nước do tư nhân gửi có đựng hàng hoá, ngoài các thủ tục đã quy định, người gửi còn phải tự kê khai chính xác và đầy đủ số hàng gửi, cụ thể loại hàng, số lượng từng loại (đối với bưu phẩm kê vào ấn phẩm riêng do bưu điện cấp, đối với bưu kiện kê vào phần chính mặt giữa, dòng ghi nội dung bên trong bưu kiện của phiếu gửi BK21). Mỗi bưu phẩm hoặc bưu kiện được kèm theo bản kê hàng hoặc BK21 riêng cho từng gói đó.
Người gửi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu có sự kê khai man trá hàng hoá đựng bên trong bưu phẩm, bưu kiện.
Hàng hoá được nhận gửi trong bưu phẩm, bưu kiện phải là loại hàng không thuộc diện cấm ghi trong các danh mục của Ban quản lý thị trường trung ương hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu đã nêu trong điểm 1, 2 của phần I.
Nếu thấy cần thiết, nhân viên bưu điện yêu cầu người gửi mở gói để xem xét lại số hàng trước khi nhận. Xem xét xong, người gửi tự gói bọc lại và có sự giám sát của nhân viên bưu điện.
2. Trên đường vận chuyển:
Các phương tiện vận chuyển có chuyển thư báo khi qua các trạm kiểm soát, nếu trạm có yêu cầu khám xét thì các phương tiện đó được ưu tiên xem xét trước nhằm bảo đảm hành trình chuyển thư đến bưu cục nhận theo đúng thời gian quy định.
a) Nếu trạm kiểm soát yêu cầu mở túi thư để khám xét phải có lệnh viết của trưởng trạm. Công nhân vận chuyển thư báo phải cùng cán bộ của trạm đó chuyển túi gói tới bưu cục gần nhất từ cấp huyện hoặc tương đương trở lên (sau đây gọi tắt là bưu cục) để tiến hành xử lý.
Trường hợp đặc biệt cơ quan có thẩm quyền phải xuất trình lệnh viết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện hoặc giám đốc cơ quan công an hoặc thuế vụ từ cấp tỉnh, thành phố trở lên mới được mở túi thư để khám xét ngay tại dọc đường. Trong khi khám xét, nếu bưu phẩm, bưu kiện bị cơ quan có thẩm quyền giữ lại để xử lý thì công nhân vận chuyển cùng cán bộ tham gia khám xét chuyển túi thư đến bưu cục để làm thủ tục giao bưu phẩm, bưu kiện như điểm 4 dưới đây.
b) Không được mở các loại túi thư sau:
- Túi công văn hệ đặc biệt (túi đỏ, nhãn đỏ).
- Túi công văn hệ II (nhãn túi màu đỏ có ký hiệu "CV" hoặc "chính vụ").
- Túi hoặc gói bưu phẩm, bưu kiện nước ngoài (nhãn cổ túi có ký hiệu "ND") hoặc "Ngoại dịch", hoặc mang tên các bưu cục nước ngoài gửi đến Việt Nam hay ngược lại).
- Túi đựng báo chí (trên túi có ghi "PHBC TW" hoặc "Phát hành báo chí".
c) Khi mở túi thư, trường hợp nào cũng phải lập biên bản. Trên biên bản phải có đầy đủ chữ ký và họ tên của những cán bộ tham gia khám xét. Nếu tiến hành khám xét tại bưu cục phải có thêm sự chứng kiến của Trưởng bưu cục hay người được Trưởng bưu cục uỷ quyền (sau đây gọi tắt là Trưởng bưu cục). Nếu khám xét ngay trên đường vận chuyển phải có thêm sự chứng kiến của chủ phương tiện (người phụ trách phương tiện hiện có mặt).
Biên bản lập phải ghi rõ các chi tiết liên quan đến túi thư hoặc bưu phẩm, bưu kiện, những sai lầm thiếu sót, nếu có. Số lượng biên bản lập đủ cho mỗi đại diện cơ quan tham gia khám xét một bản, một bản gửi kèm túi thư bị khám, một bản gửi về bưu điện tỉnh để báo cáo về Tổng cục Bưu điện.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền giữ bưu phẩm, bưu kiện để xử lý phải lập cho mỗi gói một biên bản ghi rõ lý do thu giữ.
Công nhân vận chuyển hoặc các bưu cục chỉ giao cho cơ quan có thẩm quyền các bưu phẩm, bưu kiện phải xử lý trong túi mà không được giao túi. Giấy tờ liên quan đến từng túi thư nào được kèm theo túi đó chuyển giao cho bưu cục nhận chuyển thư, kèm biên bản xử lý. Công nhân vận chuyển ghi chú trên BV 10 về các túi thư bị khám xét và yêu cầu cơ quan đã mở túi thư hay đã giữ bưu phẩm, bưu kiện ký xác nhận trên BV 10 của chuyến thư bị xử lý.