BỘ
KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1888/1997/TT-BKHCN&MT
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 11 năm 1997
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG SỐ
1888/1997/TT-BKHCN&MT NGÀY 04 THÁNG 11 NĂM 1997 HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH
SỐ 57/CP NGÀY 31-5-1997 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐO LƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG HÀNG HOÁ
Ngày 31-5-1997, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 57/CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
Đo lường và Chất lượng hàng hoá. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành
Thông tư này hướng dẫn việc thực hiện Nghị định 57/CP như sau:
1. Về những
quy định chung
1.1. Hành vi bị xử phạt hành
chính phải là hành vi vi phạm các quy định quản lý Nhà nước về đo lường và chất
lượng hàng hoá do các tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà
chưa tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.2. Tổ chức, cá nhân quy định ở
khoản 2 Điều 2 Nghị định số 57/CP được hiểu như sau:
1.2.1. Tổ chức gồm: Cơ quan Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang thành lập theo quy định của pháp luật
Việt Nam, văn phòng đại diện, doanh nghiệp nước ngoài, cơ quan ngoại giao, tổ
chức phi chính phủ v.v... hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
1.2.2. Cá nhân gồm:
- Người Việt Nam có đủ năng lực
hành vi theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng
hàng hoá đối với vi phạm do cố ý gây ra và chỉ bị phạt cảnh cáo, phạt tiền đến
50.000 đồng; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phải bị xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá với mọi vi phạm do mình
gây ra, có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính quy định tại
các điều khoản của Nghị định số 57/CP, khi phạt tiền đối với họ thì người có thẩm
quyền áp dụng mức phạt thấp hơn đối với người thành niên.
Người chưa thành niên vi phạm
hành chính gây thiệt hại vật chất thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người chưa thành niên
không có tiền nộp phạt và bồi thường thì cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó
phải nộp thay.
Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự
bị trong thời gian tập trung huấn luyện và những người thuộc lực lượng công an
nhân dân nếu vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá
thì bị xử phạt như mọi công dân khác.
- Người nước ngoài sinh sống,
công tác hoặc tham quan du lịch trên lãnh thổ Việt Nam có đủ năng lực hành vi
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1.2.3. Đối với tổ chức, cá nhân
nước ngoài có hành vi vi phạm trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá
không bị xử phạt hành chính theo Nghị định số 57/CP trong các trường hợp sau:
- Trường hợp điều ước quốc tế mà
Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác;
- Trường hợp Pháp lệnh về quyền
ưu đãi miễn trừ ngoại giao có quy định khác.
1.3. Chỉ có những người quy định
tại Điều 17, Điều 18, Điều 19 Nghị định số 57/CP mới có quyền xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá. Các cơ quan Nhà nước
khác nếu phát hiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng
hàng hoá không thuộc thẩm quyền xử phạt của mình, thì phải chuyển giao cho cơ
quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất
lượng hàng hoá để tiến hành xử lý vi phạm.
1.3.1. Trường hợp chưa có chức
danh cấp trưởng quy định tai Điều 17 Nghị định số 57/CP thì cấp phó của các chức
danh đó có thẩm quyền xử phạt như cấp trưởng.
1.3.2. Trường hợp chức danh cấp
trưởng quy định tại Khoản 2, 3 Điều 17 Nghị định số 57/CP vắng mặt hoặc được sử
uỷ quyền bằng văn bản của họ thì cấp phó của các chức danh đó có thẩm quyền xử
phạt như cấp trưởng.
1.4. Người có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá phải căn cứ
vào tính chất, mức độ vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định
hình thức, mức phạt và các biện phát hành chính khác một cách chính xác và đúng
đắn.
1.4.1 Tình tiết giảm nhẹ theo
quy định tại Điều 7 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính gồm:
- Tổ chức, cá nhân vi phạm hành
chính đã ngăn chặn làm giảm bớt tác hại của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu
quả, bồi thường thiệt hại;
- Vi phạm trong tình trạng bị
kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra;
- Người vi phạm là phụ nữ có
thai; người già yếu; người có bệnh hoặc tàn tật làm hạn chế khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- Vi phạm do hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn mà không tự mình gây ra hoàn cảnh đó;
- Vi phạm do trình độ lạc hậu.
1.4.2. Tình tiết tăng nặng theo
quy định tại Điều 7 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính gồm:
- Vi phạm có tổ chức;
- Vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm;
- Xúi giục lôi kéo người chưa
thành niên vi phạm, ép buộc người bị phụ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần
vi phạm;
- Vi phạm trong tình trạng say
do dùng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác;
- Lợi dụng chức vụ quyền hạn để
vi phạm;
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến
tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc những khó khăn dặc biệt khác của xã hội để vi
phạm;
- Vi phạm trong thời gian đang
chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi
phạm hành chính;
- Sau khi vi phạm đã có hành vi
trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính.
1.5. Nguyên tắc xử phạt vi phạm
hành chính:
1.5.1. Mọi hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá phải được phát hiện kịp thời
và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử phạt phải được tiến hành nhanh chóng, công
minh. Mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng
pháp luật. Tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính gây ra thiệt hại vật chất phải bồi
thường.
1.5.2. Một người hoặc một tổ chức
trong cùng thời điểm có nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng
hành vi vi phạm. Trong trường hợp các hành vi vi phạm đều thuộc thẩm quyền xử
phạt của một người thì ra một quyết định xử phạt chung, nhưng phải ghi rõ mức phạt
đối tới từng hành vi. Nếu có một trong các hành vi vi phạm phải xử phạt ở mức
cao hơn thẩm quyền của cấp mình thì chuyển toàn bộ hồ sơ, tang vật lên cấp có
thẩm quyền cao hơn quyết định xử phạt.
1.5.3. Nhiều tổ chức, cá nhân
cùng thực hiện một vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng
hàng hoá thì mỗi tổ chức, cá nhân đều bị xử phạt như sau:
- Trường hợp cùng tham gia thực
hiện một vi phạm mà trong đó có sự liên quan chặt chẽ với nhau thì mỗi tổ chức,
cá nhân vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm đó. Người có thẩm quyền xử phạt
chỉ ra một quyết định xử phạt chung, nhưng phải ghi rõ tên, địa chỉ từng đối tượng
bị xử phạt. Nếu phạt tiền thì mức phạt chung không được vượt quá mức phạt cao
nhất của khung phạt tiền đã được quy định tại từng điều khoản của Nghị định số
57/CP đối với hành vi vi phạm đó.
- Trường hợp cùng có một hành vi
vi phạm hành chính trong một vụ việc, nhưng giữa họ không có sự liên quan với
nhau trong việc thực hiện vi phạm thì mỗi tổ chức, cá nhân đều bị xử phạt bằng
các quyết định xử phạt riêng. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm của từng đối
tượng vi phạm mà quyết định hình thức, mức xử phạt theo quy định tại từng điều
khoản của Nghị định số 57/CP đối với hành vi vi phạm của người đó.
1.5.4. Người xử phạt không được
chia một vi phạm thành nhiều vi phạm nhỏ để xử phạt nhiều lần cho phù hợp thẩm
quyền xử phạt của cấp mình.
1.6. Những trường hợp không bị xử
phạt vi phạm hành chính về đo lường và chất lượng hàng hoá:
1.6.1. Hết thời hiệu xử phạt.
1.6.2. Vi phạm hành chính về đo
lường và chất lượng hàng hoá có dấu hiệu của tội phạm và cơ quan có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính về đo lường và chất lượng hàng hoá đã chuyển hồ sơ đến
cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
1.6.3. Vi phạm hành chính trong
trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ hoặc người vi phạm đang mắc
bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi.
- Trường hợp tình thế cấp thiết,
sự kiện bất ngờ được hiểu là thiên tai, địch hoạ và các trở lực khách quan khác
không thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp để khắc phục nhưng
không thể khắc phục được.
- Trường hợp người vi phạm đang
mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi thì phải được cơ quan y tế xác nhận.
1.7. Những hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá quy định tại Nghị định số
57/CP trùng với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất
lượng hàng hoá được quy định tại các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính khác
có xác định thẩm quyền của Thanh tra chuyên ngành Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất
lượng thì xử phạt theo quy định tại Nghị định số 57/CP.
1.8. Đối với các hành vi vi phạm
phức tạp, gây hậu quả, khó xác định là vi phạm hành chính hay có dấu hiệu tội
phạm thì trao đổi với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và chỉ ra quyết định xử
phạt sau khi có ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát nhân dân.
Những vụ vi phạm trong lĩnh vực
đo lường và chất lượng hàng hoá có quyết định đình chỉ điều tra hoặc miễn truy
cứu trách nhiệm hình sự của cơ quan có thẩm quyền xử lý hình sự thì xử phạt vi
phạm hành chính theo Nghị định số 57/CP.
Nghiêm cấm việc giữ lại các vụ
vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử lý hành chính. Người có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính cần căn cứ vào Thông tư số 11-TT/LB ngày 20-11-1990 của liên
ngành Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Toà án nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ - Bộ
Tư pháp hướng dẫn xử lý một số loại tội phạm; Thông tư số 01-TT/LB ngày
25-1-1996 của liên ngành Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Toà án nhân dân tối
cao - Bộ Nội vụ về việc xử lý hình sự các vi phạm Chỉ thị 406-TTg để xem xét
hành vi vi phạm bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử phạt hành chính.
1.9. Trường hợp các Luật có quy
định khác về việc xử phạt vi phạm hành chính về đo lường và chất lượng hàng hoá
thì việc xử phạt vi phạm hành chính áp dụng theo quy định của Luật, không xử phạt
theo Nghị định này.
1.10. Thời hiệu xử phạt vi phạm
hành chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đo lường và chất lượng
hàng hoá là một năm kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện; thời hạn trên
được tính là hai năm đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực sản xuất và buôn
bán hàng giả, kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc danh mục phải kiểm
tra Nhà nước về chất lượng. Trong thời hạn trên, nếu cá nhân, tổ chức có vi phạm
hành chính mới hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng
thời hiệu nói trên.
1.11. Thời hạn được coi là chưa
bị xử phạt vi phạm hành chính là một năm kể từ ngày cá nhân, tổ chức thi hành
xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết hiệu lực thi hành quyết định xử phạt
mà không tái phạm.
2. Về các
hành vi vi phạm, hình thức và mức xử phạt
Nghị định số 57/CP đã quy định cụ
thể các hành vi vi phạm, hình thức, mức xử phạt và các biện pháp khác đối với từng
hành vi vi phạm.
2.1. Về các hình thức xử phạt:
Hình thức xử phạt chính được áp dụng độc lập hoặc có thể áp dụng thêm hình thức
phạt bổ sung và các biện pháp khác.
2.1.1. Các hình thức xử phạt
chính:
- Phạt cảnh cáo: Chỉ phạt cảnh
cáo đối với hành vi vi phạm có quy định hình thức phạt cảnh cáo và chỉ phạt cảnh
cáo nếu vi phạm đó là vi phạm nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ, chưa gây hậu
quả.
- Phạt tiền: Chỉ phạt tiền đối với
hành vi vi phạm có tính chất, mức độ phải áp dụng hình thức phạt tiền. Mức phạt
tiền đã được quy định tại từng điều khoản của Nghị định số 57/CP. Vi phạm có
tình tiết giảm nhẹ thì có thể phạt thấp hơn, nhưng không được dưới mức thấp nhất
của khung phạt tiền đã được quy định. Vi phạm có tình tiết tăng nặng thì có thể
phạt đến mức cao nhất của khung phạt tiền đã được quy định.
2.1.2. Các hình thức xử phạt bổ
sung: Ngoài các hình thức phạt chính, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức,
cá nhân có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung:
- Tước quyền sử dụng có thời hạn
hoặc không thời hạn các loại giấy phép, giấy chứng nhận, các loại giấy tờ khác
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp trong lĩnh vực đo lường và chất lượng
hàng hoá và thông báo ngay cho cơ quan đã cấp giấy phép, giấy chứng nhận v.
v... đó biết. Khi phát hiện giấy phép được cấp không đúng thẩm quyền hoặc giấy
phép có nội dung trái pháp luật thì người có thẩm quyền xử phạt phải tiến hành
thu hồi ngay, đồng thời báo cho cơ quan Nhà nước đã cấp giấy phép đó biết.
- Tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để gây ra vi phạm hành chính mà pháp luật quy định cho phép tịch
thu.
- Tạm thời đình chỉ hoạt động
kinh doanh nếu xét thấy có thể gây hậu quả về an toàn, vệ sinh, môi trường và
kinh tế; tạm thời đình chỉ việc sản xuất, sửa chữa, kiểm định phương tiện đo lường
trái với pháp luật về đo lường; đình chỉ việc sử dụng hoặc đưa vào lưu thông
phương tiện đo lường không hợp pháp và hàng bao bì đóng gói theo định lượng
không đạt yêu cầu về đo lường.
Các hình thức xử phạt bổ sung
trên đây không được áp dụng độc lập mà phải áp dụng kèm theo hình thức phạt
chính trong trường hợp Nghị định số 57/CP có quy định hình thức phạt bổ sung.
2.1.3. Biện pháp khác: Ngoài
hình thức phạt chính, hình thức phạt bổ sung mọi vi phạm hành chính về đo lường
và chất lượng hàng hoá còn có thể bị buộc áp dụng các biện pháp khác:
- Buộc thực hiện các biện pháp
khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây lan dịch bệnh do hành vi vi
phạm hành chính gây ra.
- Buộc bồi thường thiệt hại do
vi phạm hành chính gây ra: Việc bồi thường được tiến hành theo nguyên tắc thoả
thuận giữa bên có hành vi gây ra thiệt hại và bên bị thiệt hại. Đối với những
thiệt hại về vật chất có giá trị đến 1.000.000 đồng mà không tự thoả thuận được
thì người có thẩm quyền xử phạt quyết định mức bồi thường, những thiệt hại có
giá trị từ trên 1.000.000 đồng được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Trong trường hợp không xác định được người được bồi thường thiệt hại thì có thể
tính thiệt hại thành tiền và coi đó là tang vật vi phạm để tịch thu sung quỹ
Nhà nước.
2.2. Về xác định các hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá và mức xử phạt:
Nghị định số 57/CP từ Điều 6 đến
Điều 16 quy định 11 nhóm hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và
chất lượng hàng hoá, mỗi nhóm có nhiều hành vi vi phạm cụ thể. Khi xử phạt cần
căn cứ vào các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan để xác định đúng hành
vi bị xử phạt.
2.2.1. Các vi phạm về đo lường
trong việc sản xuất phương tiện đo thuộc diện phải kiểm định Nhà nước thì bị xử
phạt theo Điều 6 Nghị định số 57/CP.
2.2.2. Các vi phạm về đo lường
trong việc sửa chữa phương tiện đo thuộc diện phải kiểm định Nhà nước thì bị xử
phạt theo Điều 7 Nghị định số 57/CP. Khi áp dụng Khoản 2 Điều 7 Nghị định số
57/CP cần lưu ý những điểm sau:
- Các tổ chức, cá nhân đã được
phép sản xuất, hoặc được công nhận khả năng kiểm định, hoặc được uỷ quyền kiểm
định phương tiện đo, khi tiến hành sửa chữa đo cùng loại thì không phải đăng ký
tại cơ quan quản lý Nhà nước về đo lường.
- Những đối tượng khác khi hành
nghề sửa chữa phương tiện đo thuộc diện phải kiểm định Nhà nước (trừ trường hợp
chủ phương tiện đo tự lo liệu việc sửa chữa) đều phải đăng ký tại cơ quan quản
lý Nhà nước về đo lường.
2.2.3. Các vi phạm về đo lường
trong việc buôn bán phương tiện đo thuộc diện phải kiểm định Nhà nước thì bị xử
phạt theo Điều 8 Nghị định số 57/CP.
2.2.4. Các vi phạm về đo lường
trong việc sử dụng phương tiện do thuộc diện phải kiểm định Nhà nước thì bị xử
phạt theo Điều 9 Nghị định số 57/CP.
2.2.5. Các vi phạm về đo lường
trong việc sản xuất sang bao đóng gói hàng hoá bao gói sẵn theo định lượng thì
bị xử phạt theo Điều 10 Nghị định số 57/CP.
2.2.6. Các vi phạm về đo lường
trong việc buôn bán hàng hoá bao gói sẵn theo định lượng thì bị xử phạt theo Điều
11 Nghị định số 57/CP.
2.2.7. Các vi phạm quy định về
công bố tiêu chuẩn chất lượng và đăng ký chất lượng hàng hoá trong việc sản xuất
hàng hoá thuộc danh mục phải đăng ký chất lượng hoặc chất lượng tự nguyện đăng
ký thì bị xử phạt theo Điều 12 Nghị định số 57/CP. Khi áp dụng Điểm b, Khoản 1
Điều 12 của Nghị định cần lưu ý là những thay đổi so với nội dung đã đăng ký chất
lượng bao gồm cả những thay đổi về danh mục chỉ tiêu chất lượng, về mức chất lượng
về bao bì, về cách trình bày và nội dung ghi nhãn sản phẩm.
Những thay đổi về cách trình bày
và nội dung ghi nhãn sản phẩm là những điểm khác nhau giữa nhãn thực tế sử dụng
và nhãn đã được cơ quan cấp đăng ký chất lượng chấp nhận. Những điểm khác nhau
có thể là:
- Thay đổi bố cục, mầu sắc và kiểu
dáng trang trí nhãn;
- Thay đổi kích thước, mầu sắc
và kiểu dáng của chữ in, của hình vẽ trên nhãn;
- Thêm hoặc bớt các nội dung ghi
nhãn;
- Không ghi đầy đủ các thông tin
cần ghi thêm khi sản phẩm hoàn thành như thời gian sản xuất, thời hạn bảo quản,
thời gian sử dụng sản phẩm tốt nhất v.v...
2.2.8. Các vi phạm quy định về
chứng nhận hợp chuẩn trong việc sản xuất hàng hoá thì bị xử phạt theo Điều 13
Nghị định số 57/CP. Khi áp dụng Điểm d, Khoản 2, điều này cần tịch thu và huỷ bỏ
dấu, tem hợp chuẩn đó, buộc tổ chức, cá nhân vi phạm đình chỉ và cải chính lời
quảng cáo. Nếu vi phạm hành chính này có tình tiết tăng nặng thì hành vi vi phạm
được coi là hành vi sản xuất hàng giả và bị xử phạt theo Khoản 1 Điều 15 Nghị định
số 57/CP.
2.2.9. Các vi phạm về chất lượng
hàng hoá trong buôn bán thì bị xử phạt theo điều 14 Nghị định số 57/CP. Khi áp
dụng Điều này cần lưu ý như sau:
- Vi phạm Khoản 1, 2 thì phải tạm
đình chỉ lưu thông và tìm biện pháp xử lý thích hợp.
- Vi phạm Khoản 3 thì buộc phải
bồi thường do hành vi vi phạm hành chính gây ra; buộc tái chế hoặc tiêu huỷ
hàng hoá có chất lượng kém có khả năng gây thiệt hại cho sức khoẻ con người,
gây ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh.
2.2.10. Các vi phạm trong việc sản
xuất, buôn bán hàng giả nhưng chưa tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị
xử phạt theo Điều 15 Nghị định số 57/CP. Khi áp dụng Điều này cần lưu ý là những
hàng hoá có một trong những dấu hiệu dưới đây được coi là hàng giả:
- Hàng hoá có nhãn sản phẩm giả
mạo, giống hệt hoặc tương tự với nhãn sản phẩm của một cơ sở sản xuất khác đã
đăng ký chất lượng;
- Hàng hoá mang nhãn hiệu hàng
hoá giống hệt hoặc tương tự tới mức có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn
với nhãn hiệu hàng hoá của cơ sở bán khác đã được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
- Hàng hoá mang nhãn không đúng
với nhãn sản phẩm đã đăng ký với cơ quan Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng.
- Hàng hoá ghi dấu phù hợp Tiêu
chuẩn Việt Nam khi chưa được cấp giấy chứng nhận và dấu phù hợp Tiêu chuẩn Việt
Nam. Nếu hành vi vi phạm này có tình tiết giảm nhẹ thì xử phạt theo Điểm d Khoản
2 Điều 13 Nghị định số 57/CP.
- Hàng hoá có giá trị sử dụng
không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó nhưng
không gây độc hại đến con người, ô nhiễm môi trường.
2.2.11. Các vi phạm quy định kiểm
tra Nhà nước về chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu trong việc kinh doanh hàng
hoá xuất nhập khẩu thuộc danh mục phải kiểm tra Nhà nước về chất lượng thì bị xử
phạt theo Điều 16 Nghị định số 57/CP.
3. Về thẩm
quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng
hàng hoá
3.1. Về thẩm quyền xử phạt:
3.1.1. Thanh tra viên chuyên
ngành Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng thuộc các tổ chức thanh tra của các cơ
quan quản lý Nhà nước được phân công trách nhiệm quản lý Nhà nước về chất lượng
hàng hoá theo Nghị định 86/CP của Chính phủ; Thanh tra viên chuyên ngành Tiêu
chuẩn - Đo lường - Chất lượng thuộc Thanh tra Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường
và thuộc Thanh tra Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng thực hiện quyền
xử phạt theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 57/CP.
3.1.2. Chánh thanh tra chuyên
ngành Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (Chánh thanh tra Sở) thực hiện quyền xử phạt theo quy định tại Khoản 2 Điều
17 Nghị định số 57/CP.
- Đối với những vụ có tình tiết
phức tạp, áp dụng hình phạt bổ sung mà hàng hoá, tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính bị tịch thu hoặc phải tiêu huỷ có giá trị trên 15.000.000 đồng thì
Chánh thanh tra Sở gửi hồ sơ và báo cáo cho Chánh thanh tra Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường (gọi tắt là Chánh thanh tra Bộ) và sau khi có sự hướng dẫn của
Chánh thanh tra Bộ thì mới ra quyết định xử phạt.
- Đối với những vụ vi phạm áp dụng
hình thức phạt tiền trên 10. 000.000 đồng thì Giám đốc Sở (tương ứng với các Bộ
được Chính phủ phân công trách nhiệm quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá
theo Nghị định 86/CP) làm thủ tục chuyển hồ sơ sang Uỷ ban nhân dân tỉnh để Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định xử phạt. Sau khi có Quyết định xử phạt
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Chánh thanh tra Sở chịu trách nhiệm tổ chức
thi hành Quyết định xử phạt.
3.1.3. Chánh thanh tra chuyên
ngành Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng thực hiện quyền xử phạt theo
Khoản 3 Điều 17 Nghị định số 57/CP. Đối với những vụ có tình tiết phức tạp, áp
dụng hình phạt bổ sung mà hàng hoá, tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị
tịch thu hoặc phải tiêu huỷ có giá trị trên 25.000.000 đồng thì gửi hồ sơ báo
cáo cho Chánh thanh tra Bộ và sau khi có sự hướng dẫn của Chánh thanh tra Bộ
thì mới ra quyết định xử phạt.
3.1.4. Chánh thanh tra Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường thực hiện quyền xử phạt theo Khoản 3 Điều 17 Nghị định
số 57/CP đối với những vụ vi phạm trong những trường hợp sau:
- Do kiến nghị của đoàn thanh
tra Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng mà Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường hoặc Chánh thanh tra Bộ ra quyết định thành lập.
- Do kiến nghị của Chánh thanh
tra Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng.
- Theo chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ hoặc của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
3.1.5. Uỷ ban nhân dân các cấp
thực hiện quyền xử phạt theo quy định tại các Điều 26, 27, 28 Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính.
3.1.6. Các cơ quan Cảnh sát, Hải
quan, Quản lý thị trường và các cơ quan thanh tra chuyên ngành khác thực hiện
quyền xử phạt theo quy định tại các Điều 29, 30, 33, 34 Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính.
3.1.7. Nguyên tắc phân định thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính:
- Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm
quyền xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng
hoá thuộc đối tượng quản lý ở địa phương mình.
- Các cơ quan Cảnh sát, Hải
quan, Quản lý thị trường và các cơ quan thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá thuộc đối
tượng quản lý của mình.
- Trong trường hợp vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá thuộc thẩm quyền xử phạt của
nhiều cơ quan thì việc xử phạt do cơ quan thụ lý đầu tiên thực hiện.
3.2. Thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính và thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
3.2.1. Khi xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá bằng hình thức phạt cảnh
cáo thì không phải lập biên bản mà có thể ra quyết định xử phạt tại chỗ.
3.2.2. Khi xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá bằng hình thức phạt tiền
theo Nghị định số 57/CP thì người có thẩm quyền xử phạt lập biên bản vi phạm
hành chính.
Biên bản về vi phạm hành chính
phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ tên chức vụ người lập
biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp người vi phạm hoặc tên, địa chỉ tổ chức
vi phạm; ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; nội dung vi phạm; các biện
pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử phạt (nếu có); lời khai của
người vi phạm hoặc đại diện của tổ chức vi phạm, nếu có người làm chứng, người
bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ,
lời khai của họ.
Biên bản phải được lập thành ít
nhất là hai bản; phải được người lập biên bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ
chức vi phạm ký; nếu có người làm chứng, người bị thiệt hại thì họ cũng phải ký
vào biên bản; nếu người làm chứng; người bị thiệt hại từ chối ký thì phải ghi
rõ lý do vào biên bản. Trong trường hợp biên bản gồm nhiều tờ thì những người
nói trên phải ký vào từng tờ.
Biên bản lập xong phải trao cho
cá nhân, tổ chức vi phạm một bản; nếu người lập biên bản không có thẩm quyền xử
phạt thì phải gửi biên bản đến người có thẩm quyền xử lý.
3.2.3. Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính
Trong thời hạn 15 ngày hoặc 30
ngày (nếu có nhiều tình tiết phức tạp) kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành
chính, người có thẩm quyền phải ra quyết định xử phạt.
Quyết định xử phạt phải ghi rõ
ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên,
địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm;
điều, khoản, tên văn bản pháp luật được áp dụng, hình thức xử phạt chính, các
hình thức xử phạt bổ sung, các biện pháp xử lý tang vật, phương tiện; biện pháp
khắc phục hậu quả; thời hạn, nơi thi hành quyết định xử phạt và chữ ký của người
ra quyết định xử phạt.
Trong quyết định xử phạt cũng phải
ghi rõ, nếu cá nhân, tổ chức bị xử phạt không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng
chế thi hành; quyền khiếu nại, nơi và thời gian khiếu nại.
Quyết định xử phạt có hiệu lực từ
ngày ký hoặc có thể ghi ngày có hiệu lực và phải gửi cho cá nhân, tổ chức bị xử
phạt, cơ quan thu tiền phạt trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra quyết định xử
phạt.
Kể từ ngày nhận được quyết định
xử phạt, cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải thực hiện quyết định xử phạt, nếu cố
tình không chấp hành thì bị cưỡng chế chấp hành.
Người ra quyết định xử phạt có
quyền ra quyết định cưỡng chế và có nhiệm vụ tổ chức việc cưỡng chế.
Chánh thanh tra các Sở, Chánh
thanh tra Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, Chánh thanh tra các Bộ
(các Bộ được Chính phủ phân công trách nhiệm quản lý Nhà nước về chất lượng
hàng hoá theo Nghị định số 86/CP) yêu cầu lực lượng Cảnh sát nhân dân phối hợp
tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế theo quy định tại Khoản 3 Điều 55 Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính.
Cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải
chịu mọi chi phí về việc tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế.
Quyết định phạt tiền từ
2.000.000 đồng trở lên và quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm có
giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên phải gửi ngay cho Viện Kiểm sát nhân dân cùng
cấp.
Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính hết hiệu lực thi hành sau một năm kể từ ngày ra quyết định; trong trường
hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì không áp dụng
thời hiệu này.
4. Về khiếu
nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
4.1. Khiếu nại và giải quyết khiếu
nại:
Trình tự, thủ tục khiếu nại và
giải quyết khiếu nại quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường
và chất lượng hàng hoá thực hiện theo quy định tại Điều 87, 88 và 89 Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính.
4.1.1. Người có thẩm quyền quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá
có trách nhiệm giải quyết khiếu nại lần thứ nhất đối với khiếu nại quyết định xử
phạt do mình quyết định.
4.1.2. Chánh thanh tra các Sở,
Chánh thanh tra Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, Chánh thanh tra
các Bộ giải quyết khiếu nại lần thứ 2 đối với các khiếu nại quyết định xử phạt
của thanh tra viên thuộc tổ chức thanh tra cùng cấp. Quyết định giải quyết này
là quyết định cuối cùng.
4.1.3. Giám đốc các Sở giải quyết
khiếu nại lần thứ 2 đối với khiếu nại quyết định xử phạt của Chánh thanh tra
các Sở; Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng giải quyết
khiếu nại lần thứ 2 đối với các khiếu nại quyết định xử phạt của Chánh thanh
tra Tổng cục; Bộ trưởng các Bộ giải quyết khiếu nại lần thứ 2 đối với các khiếu
nại quyết định xử phạt của các Chánh thanh tra Bộ, Quyết định giải quyết này là
quyết định cuối cùng.
4.1.4. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh giải quyết khiếu nại lần thứ 2 đối
với khiếu nại quyết định xử phạt của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn. Quyết định giải quyết này là quyết định cuối cùng.
4.1.5. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh giải quyết khiếu nại lần thứ 2 đối với khiếu nại quyết định xử phạt của Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Quyết định giải
quyết này là quyết định cuối cùng.
4.1.6. Bộ trường Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường giải quyết khiếu nại lần thứ 2 đối với khiếu nại quyết
định xử phạt của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh. Nếu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
đồng ý với quyết định của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thì
quyết định của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường là quyết định cuối
cùng. Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh không đồng ý với quyết định của
Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
khiếu nại lên Tổng Thanh tra Nhà nước. Quyết định của Tổng thanh tra Nhà nước
là quyết định cuối cùng.
4.1.7. Nếu không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại lần thứ nhất đối với quyết định xử phạt thì người khiếu
nại có thể khiếu nại lên cấp trên của người xử phạt theo trình tự nêu trên hoặc
khởi kiện ra Toà hành chính của Toà án nhân dân các cấp.
4.2. Tố cáo và giải quyết tố
cáo:
4.2.1. Việc tố cáo của công dân
thực hiện theo Khoản 1 Điều 23 Nghị định 57/CP.
4.2.2. Việc giải quyết tố cáo của
công dân thực hiện theo Khoản 4 Điều 23 Nghị định số 57/CP.
5. Về tổ chức
thực hiện
5.1. Căn cứ Nghị định số 57/CP
và Thông tư hướng dẫn này, các Bộ, ngành có chức năng xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá cần tổ chức chỉ đạo, hướng
dẫn cán bộ, nhân viên trong ngành nắm vững và thực hiện đúng các quy định khi
tiến hành xử phạt vi phạm hành chính; thường xuyên phối hợp với Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường và các Bộ, ngành có chức năng khác trong việc tổ chức
thực hiện Nghị định số 57/CP.
5.2. Tổng cục trưởng Tổng cục
Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, Chánh thanh tra Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường có trách nhiệm giúp Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra các Bộ, các Sở có chức năng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đo lường và chất lượng hàng hoá trong việc thực hiện Nghị định số 57/CP.
5.3. Giám đốc Sở Khoa học, Công
nghệ và Môi trường tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm giúp Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện Nghị định số
57/CP ở địa phương; theo dõi, tổng hợp tình hình xử phạt hành chính theo Nghị định
số 57/CP để báo cáo với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường; kịp thời đề xuất với Bộ những vướng mắc
trong khi thực hiện.
5.4. Việc thu và sử dụng tiền xử
phạt vi phạm hành chính về đo lường và chất lượng hàng hoá áp dụng theo Thông
tư số 52 TC/CSTC ngày 12 tháng 9 năm 1996 của Bộ Tài chính.