BỘ
GIÁO DỤC
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
17-TT
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 08 năm 1971
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN VỀ VIỆC QUẢN LÝ QUỸ LAO ĐỘNG SẢN XUẤT Ở CÁC TRƯỜNG
PHỔ THÔNG
BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC
Ngày 01 tháng 12 năm 1970, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 237-TTg về việc tổ chức lao động sản xuất
trong các trường phổ thông, đại học và trung học chuyên nghiệp.
Sau khi thống nhất ý kiến với Bộ
Tài chính Bộ hướng dẫn việc quản lý quỹ lao động sản xuất ở các trường phổ
thông như sau.
I. NGUYÊN TẮC CHUNG
1. Quỹ lao động sản xuất của các trường
phổ thông tuy không phải là một khoản thu, chi của ngân sách Nhà nước, nhưng là
một khoản thu, chi của tập thể, nên phải quản lý theo đúng chế độ kế toán Nhà
nước đã quy định.
2. Việc sử dụng tiền thu được hay sản phẩm
làm ra phải được tập thể Ban chỉ đạo lao động sản xuất của trường bàn bạc và
quyết định theo đúng Chỉ thị số 237-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt việc
tiêu thụ nông sản phẩm phải theo đúng chính sách lương thực đang thi hành tại địa
phương.
3. Các cơ quan quản lý giáo dục có trách
nhiệm giúp Uỷ ban hành chính cùng cấp hướng dẫn về việc quản lý quỹ lao động sản
xuất, thường xuyên kiểm tra các trường về mặt chi tiêu để ngăn chặn những trưòng
hợp tham ô, lãng phí, chi sai chế độ.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CỤ THỂ
1. Tổ chức
quản lý quỹ lao động sản xuất ở trường.
Thông tư số 30-TT ngày 18 tháng
12 năm 1970 của Bộ đã quy định Ban chỉ đạo lao động sản xuất ở trường có nhiệm
vụ quản lý tài vụ, vật tư và quản lý phân phối thành phẩm; đồng chí hiệu phó,
thay mặt Ban giám hiệu, được phân công làm Trưởng Ban chỉ đạo lao động sản xuất
sẽ là người chịu trách nhiệm trực tiếp về quản lý quỹ lao động sản xuất của trường.
Tuy vậy đồng chí hiệu trưởng vẫn là người chịu trách nhiệm chính trước cơ quan
quản lý giáo dục về mọi hoạt động của nhà trường nói chung và của Ban chỉ đạo
lao động sản xuất của nhà trường nói riêng.
Tuỳ quy mô sản xuất của từng trường.
Ban chỉ đạo lao động sản xuất phân công cho các uỷ viên hoặc nếu cần thì mới
thêm một số cán bộ, giáo viên của trường giúp Ban giữ sổ sách kế toán, giữ kho
hay giữ quỹ. Những việc này không nên giao cho học sinh dù học sinh đó được bầu
vào Ban chỉ đạo lao động sản xuất. Cán bộ, giáo viên được phân công làm các việc
này phải là những người có phẩm chất chính trị tốt, có năng lực để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Không phân công kế toán kiêm giữ
quỹ, giữ kho hay đi mua nguyên vật liệu, giao dịch bán sản phẩm.
2. Nguồn vốn
của quỹ lao động sản xuất.
Thực hiện giáo dục kỹ thuật tổng
hợp, nhiều trường đã được đầu tư trang bị một số máy móc, dụng cụ. Ban chỉ đạo
lao động sản xuất có thể sử dụng số máy móc, dụng cụ đó cho học sinh vừa học vừa
sản xuất ra của cải vật chất, nhưng cần có nội quy sử dụng thực tốt các máy
móc, dụng cụ và phải thường xuyên tổ chức bảo dưỡng để sử dụng được lâu dài.
Chi phí về sửa chữa, bảo dưỡng được tính vào chi phí sản xuất của quỹ lao động
sản xuất.
Để có vốn ban đầu hoạt động, trường
có thể tổ chức cho học sinh đi lao động ở công, nông, lâm trường, xí nghiệp để
lấy tiền. Những ngày đi lao động này được tính vào thời gian lao động trong một
năm của học sinh.
Nếu sản xuất lớn, cần nhiều vốn
thì có thể liên hệ với cơ quan Ngân hàng để vay vốn theo tinh thần công văn số
137-TDNT ngày 28-04-1961 của Ngân hàng Nhà nước và Thông tư số 57-TT/LB ngày
19-12-1961 của Liên bộ Giáo dục – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3. Nội dung
thu và chi của quỹ lao động sản xuất.
a) Về thu: Theo nguyên tắc,
chỉ ghi vào quỹ này các khoản thu nhập của các việc mà trường đứng ra tổ chức
cho học sinh làm tập thể như: thu nhặt phế liệu, phế phẩm, sản xuất ở vườn trường,
ao trường, ruộng thí nghiệm, sản xuất ở xưởng trường… Thu nhập của học sinh ở
các hợp tác xã Măng non ở các đội học tốt làm tốt, hoặc thu nhập của học sinh
được giới thiệu đi lao động ngoài giờ ở các xí nghiệp, công trường… để học sinh
tự túc một phần tiền ăn học đỡ cho gia đình thì không thu vào quỹ lao động sản
xuất của trường.
Các khoản thu do tổ chức công
đoàn giáo viên sản xuất tự túc không có mục đích góp vốn vào quỹ lao động sản
xuất của trường thì cũng không thu vào quỹ lao động sản xuất của trường.
Các khoản thu của quỹ lao động sản
xuất của các trường phổ thông có thể chia thành bốn loại như sau:
- Thu tiền bán sản phẩm như: tiền
bán sản phẩm do xưởng trường làm ra, tiền bán hoa mầu do học sinh trồng cấy ở
vườn trường, ruộng thí nghiệm và các khu vực cây trồng do nhà trường phụ trách,
tiền bán gia súc do học sinh chăn nuôi ở trường;
- Thu tiền bán phế liệu, phế
phẩm, lâm sản do trường tổ chức thu nhặt được;
- Thu tiền học sinh đi lao động
tập thể ở các công, nông, lâm trường, xí nghiệp được các đơn vị này trả
công;
- Các khoản thu khác như:
học sinh được giới thiệu đi lao động ở xí nghiệp ngoài giờ học tự nguyện trích
một phần thu nhập để ủng hộ vào quỹ lao động, tiền thưởng do quỹ lao động gửi
tiết kiệm được trúng giải…
b) Về chi. Có ba loại
chi:
- Chi phí về sản xuất như:
mua nguyên vật liệu, giống, phân bón, dụng cụ rẻ tiền mau hỏng, sửa chữa và bảo
dưỡng máy móc và dụng cụ của xưởng trường, tiền lương của công nhân thuê để
hoàn thành sản phẩm, tiền bồi dưỡng cho học sinh và giáo viên những ngày đi lao
động tập thể, giấy đóng sổ sách kế toán, tiền lãi phải trả cho Ngân hàng…;
- Chi để mở rộng sản xuất như:
xây dựng xưởng trường, mua sắm thêm máy móc, dụng cụ để sản xuất... Khoản này bằng
từ 30% đến 40% tiền lãi;
- Chi phí về các việc có ích
chung cho trường và giảm phần đóng góp của gia đình với nhà trường như:
thành lập tủ sách giáo khoa dùng chung, mua thêm sách báo cho thư viện của trường,
mua thêm đồ dùng dạy học, dụng cụ văn nghệ, thể dục thể thao, thành lập tủ thuốc
cấp cứu của trường, khen thưởng những người có thành tích lao động sản xuất hoặc
thành tích quản lý tốt quỹ lao động sản xuất…Khoản này chỉ bằng từ 60% đến 70%
tiền lãi.
4. Sổ sách kế
toán.
Quy mô sản xuất của các trường
phổ thông nói chung không lớn và phức tạp, cho nên trường chỉ cần mở 4 quyển sổ
(mẫu kèm theo)[1]:
- Sổ nhật ký thu, chi kiêm sổ quỹ,
- Sổ phân tích chi về tiền lãi,
- Sổ kho sản phẩm,
- Sổ kho nguyên, vật liệu (nếu
trường tổ chức cho học sinh sản xuất hàng thủ công, công nghiệp).
5. Chế độ
ghi sổ sách kế toán.
Ghi sổ sách theo phương pháp ghi
sổ “đơn”
Sổ sách trước khi đem dùng phải
đánh số thứ tự vào các trang, đóng dấu giáp lai vào các trang và phải được hiệu
trưởng hay hiệu phó chứng nhận số trang của từng sổ.
Sổ sách kế toán không được ghi
chép bằng bút chì thường, không được tẩy xoá, cắt dán, viết xen kẽ, viết chồng
hoặc để thừa dòng trống giữa hai dòng viết. Khi viết sai phải sửa thì phải được
hiệu trưởng hay hiệu phó chứng nhận chỗ sửa.
Niên độ kế toán của quỹ lao động
sản xuất của trường phổ thông được tính theo năm học (kết thúc khi bế giảng năm
học và bắt đầu vào ngày tiếp theo).
Cuối mỗi tháng, kế toán viên phải
khoá các sổ sách kế toán và đối chiếu tiền mặt với sổ quỹ, đối chiếu hàng thực
còn ở kho với sổ kho; nếu chưa khớp đúng thì phải tìm cho ra chỗ sai và giải quyết.
Khi bế giảng năm học, trước khi
khoá sổ sách để lập quyết toán quỹ lao động sản xuất, phải thanh toán thu hồi hết
các khoản tạm ứng, giải quyết tiêu thụ các sản phẩm hoặc nguyên liệu ứ đọng lâu
ngày ở kho. Sau khi đã thanh toán mà còn số dư (như tiền còn ở quỹ, tiền tạm ứng
chưa thu hồi…) thì phải chuyển số dư đó sang sổ mới của năm sau để tiếp tục
theo dõi.
6. Chế độ chứng
từ.
Mọi hoạt động thu, chi tiền hay
xuất, nhập sản phẩm, nguyên liệu đều phải có chứng từ hợp lệ. Chứng từ hợp lệ
là những phiếu thu, phiếu chi, hoá đơn, bảng kê tiền chi, giấy xuất kho… phản ảnh
đúng sự thực, số liệu chính xác, chữ viết rõ ràng, nội dung dễ hiểu.
Tất cả chứng từ phải được hiệu
trưởng hay hiệu phó ký duyệt mới được sử dụng và ghi sổ sách.
7. Chế độ
chi tiêu.
Quỹ lao động sản xuất của trường
là do công sức của giáo viên và học sinh đóng góp, cho nên chi tiêu phải chặt
chẽ, đúng chế độ và minh bạch. Tuyệt đối không được tuỳ tiện sử dụng vào các việc
như liên hoan, ăn uống, biếu xén… Chi vào công việc gì phải mang lại hiệu quả
kinh tế thiết thực và không được lỗ vốn.
Tiền lãi cuối năm học chưa sử dụng
hết phải chuyển sang năm sau, không được chi hết vào những việc chưa cần thiết.
Trong các khoản được chi cần chú
ý một số điểm như sau:
a) Phân phối tiền lãi thu được:
đảm bảo phân phối từ 60% đến 70% tiền lãi thu được dùng vào việc có ích
chung cho nhà trường và giảm bớt phần đóng góp của gia đình đối với trường và
phân phối từ 30% đến 40% tiền lãi thu được để tích luỹ mở rộng sản xuất.
b) Chi về bồi dưỡng cho học
sinh trong những ngày đi lao động tập thể: Trong những ngày lao động sản xuất
hàng năm do nhà trường quản lý, tuỳ theo công việc nặng nhọc và kết quả thu nhập
thực tế, Ban chỉ đạo lao động sản xuất của trường có thể quyết định trích một số
tiền để bồi dưỡng cho học sinh (như tổ chức nước uống…), mức chi không quá 0đ30
một người một ngày.
Ngoài những ngày lao động hàng
năm đã quy định, nếu trường huy động học sinh để làm những việc cấp thiết cho
trường như thu hoạch hoa mầu, sản xuất ở lò gạch, lò ngói… thì căn cứ vào mức độ
nặng nhọc và thu nhập thực tế của các việc đó mà Ban chỉ đạo lao động sản xuất
của trường quyết định tiền thù lao cho học sinh cho thoả đáng.
Chi về bồi dưỡng và thù lao được
coi như chi phí sản xuất và phải thanh toán kịp thời cho học sinh.
c) Chi về các việc có ích
chung cho trường. Trong trường học có những khoản chi đã được cơ quan tài
chính cấp phát theo tiêu chuẩn, định mức (như văn phòng phẩm, giấy bút cho giáo
viên soạn bài, hội nghị phí…) có những khoản chi chưa được cơ quan tài chính cấp
(như báo chí của ngành…) hoặc cấp chưa đầy đủ (như mua sắm đồ dùng dạy học, dụng
cụ văn nghệ, thể dục thể thao…). Ban chỉ đạo lao động sản xuất của trường chỉ
nên xuất quỹ để chi những khoản chưa được ngân sách Nhà nước cấp hoặc cấp chưa
đủ; tuyệt đối không được chi thêm cho các khoản đã được cấp theo tiêu chuẩn, định
mức rồi.
d) Tiền lương công nhân thuê
để hoàn thành sản phẩm. Trưòng hợp thực cần thiết như sản phẩm dở dang nhiều,
trường chưa có giáo viên dạy kỹ thuật công nghiệp và công nhân kỹ thuật ở xưởng
trường, trường có thể ký hợp đồng thuê một số thợ lành nghề để hoàn thành sản
phẩm. Mức lương trả cho những người này cần thống nhất với cơ quan lao động địa
phương để không gây khó khăn cho kế hoạch điều phối lao động của địa phương.
đ) Chỉ đạo lao động sản xuất ở
trường là trách nhiệm của giáo viên và cán bộ nhà trường. Vì vậy trường không
được trích quỹ lao động sản xuất của trường để trả phụ cấp cho cán bộ, giáo
viên chỉ đạo lao động sản xuất. Nếu cán bộ, giáo viên cùng trực tiếp lao động
với học sinh thì cũng được bồi dưỡng hay được trả thù lao như học sinh.
8. Chế độ quản
lý tiền mặt.
Chỉ được giữ tiền mặt ở quỹ theo
mức quy định của Ngân hàng địa phương. Số tiền còn lại không được cho cá nhân
vay mà phải đứng tên trường (không đứng tên cá nhân) gửi vào quỹ tín dụng của
xã hay quỹ tiết kiệm (loại không giới hạn có thưởng) của Ngân hàng. Tiền gửi tiết
kiệm nếu được trúng thưởng phải nhập quỹ lao động sản xuất.
9. Chế độ quản
lý tài sản do quỹ lao động sản xuất mua sắm hay do xưởng trường làm ra.
Các tài sản này đều coi là tài sản
chung của trường và phải ghi vào sổ mục lục tài sản của trường, nhưng có
ghi chú riêng để tiện tra cứu khi cần thiết.
10. Chế độ
kiểm kê kho, quỹ. Để kiểm tra việc giữ gìn và sử dụng các loại tài sản,
nguyên liệu, để phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những hiện tượng lãng phí, sử dụng
tài sản sai chế độ. Ban chỉ đạo lao động sản xuất của trưởng phải tổ chức kiểm
kê quỹ tiền mặt, kho sản phẩm và kho nguyên liệu mỗi năm học hai lần vào sau học
kỳ I và trước khi kết thúc năm học. Việc kiểm kê này còn giúp cho Ban chỉ đạo
lao động sản xuất bổ sung kịp thời kế hoạch sản xuất và nắm chắc số liệu để làm
quyết toán quỹ lao động sản xuất.
Ngoài ra mỗi khi thay đổi Trưởng
Ban chỉ đạo lao động sản xuất, thay đổi kế toán, thủ quỹ hay thủ kho, hoặc gặp
thiên tai, dịch hoạ tài sản bị mất mát thì cũng phải tổ chức kiểm kê và lập biên
bản để có cơ sở giải quyết nếu cần.
11. Chế độ
kiểm tra.
Các Sở, Ty, Phòng Giáo dục có
trách nhiệm trực tiếp kiểm tra quỹ lao động sản xuất của các trường mỗi năm tối
thiểu một lần. Nếu cần thiết, các cơ quan quản lý giáo dục có thể phối hợp với
cơ quan tài chính để kiểm tra.
12. Chế độ
trách nhiệm vật chất.
Các cán bộ trong Ban chỉ đạo lao
động sản xuất, các giáo viên và học sinh vì thiếu tinh thần trách nhiệm để mất
tiền, sản phẩm, nguyên vật liệu thì phải đền bù cho đủ. Trưòng hợp phạm sai lầm
nghiêm trọng như cố ý tính toán, ghi sổ và báo cáo sai sự thực, giả mạo giấy tờ
hoặc che giấu hay đồng tình với những hành động tham ô, lãng phí làm thiệt hại
đến tài sản của tập thể thì có thể bị thi hành kỷ luật về mặt hành chính.
Những cán bộ, giáo viên, học sinh
có thành tích trong việc chấp hành các chế độ quản lý tài chính, phát hiện và
ngăn ngừa kịp thời tham ô, lãng phí sẽ được biểu dương hoặc được đề nghị các cấp
quản lý giáo dục hay Uỷ ban hành chính các cấp khen thưởng; ngoài ra còn có thể
được tập thể Ban chỉ đạo lao động sản xuất của trường quyết định trích quỹ lao
động sản xuất để cho một số tặng phẩm.
13. Chế độ
báo cáo và quyết toán.
Trước khi kết thúc năm học, Ban
chỉ đạo lao động sản xuất của trường phải làm quyết toán quỹ lao động sản xuất
và thống kê kết quả lao động cả năm học gửi cơ quan quản lý giáo dục cấp trên.
Nội dung quyết toán quỹ lao động
sản xuất bao gồm:
- Liệt kê các khoản thu về bán sản
phẩm, thu về bán phế liệu, phế phẩm, lâm sản thu nhặt được, thu tiền học sinh
đi lao động tập thể được trả công và các khoản thu khác (theo sổ nhật ký thu,
chi kiêm sổ quỹ).
- Liệt kê các khoản đã chi cho sản
xuất,
- Liệt kê các khoản đã chi để mở
rộng sản xuất;
- Liệt kê các khoản đã chi về
các việc có ích chung cho trường và giảm phần đóng góp của gia đình với nhà trường.
Mẫu thống kê kết quả lao động sẽ
do Bộ Giáo dục ban hành.
Để có thể thống kê cuối năm được
chính xác, ngoài việc sử dụng các sổ sách kế toán, các trường cần có sổ ghi
chép ngày công và giờ công của từng đợt lao động và kết quả đã thu được.
Quyết toán quỹ lao động sản xuất
và thống kê kết quả lao động sản xuất phải thông qua Hội đồng giáo viên và phải
niêm yết trước khi làm lễ bế giảng năm học ít nhất một tuần lễ để cho cán bộ,
giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh được biết. Ai chưa rõ vấn đề gì có quyền
hỏi Ban chỉ đạo lao động sản xuất của trường. Ban này có nhiệm vụ trình bày lại.
Các Phòng giáo dục huyện phải tổng
hợp quyết toán quỹ lao động sản xuất và thống kê kết quả lao động sản xuất của
các trường phổ thông trong huyện gửi cho Sở, Ty giáo dục. Sở, Ty giáo dục phải
tổng hợp báo cáo của toàn tỉnh, thành phố gửi cho Bộ Giáo dục và Bộ Tài chính
(Vụ tài vụ hành chính – văn xã) và sao gửi Sở, Ty tài chính chậm nhất ngày 31
tháng 07 hàng năm.
Quản lý quỹ lao động sản xuất là
một khâu quan trọng trong công tác chỉ đạo lao động sản xuất ở trường. Quản lý
tốt quỹ này không những góp phần giáo dục ý thức sản xuất và tiết kiệm cho học
sinh mà còn tạo thêm của cải vật chất để từng bước cải thiện điều kiện học tập
và sinh hoạt của cán bộ, giáo viên, học sinh.
Bộ yêu cầu Uỷ ban giao trách nhiệm
cho các Sở, Ty giáo dục phối hợp với Sở, Ty tài chính chỉ đạo các trường phổ
thông quản lý chặt chẽ quỹ này.
Thông tư này thay thế cho Chỉ thị
số 01-KHTV ngày 07 tháng 01 năm 1964 của Bộ và bắt đầu thi hành từ năm học 1971
– 1972.
|
K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC
THỨ TRƯỞNG
Võ Thuần Nho
|
[1]Không in sổ mẫu