THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
10-TTg
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 2 năm 1963
|
THÔNG TƯ
CỦA PHỦ THỦ TƯỚNG SỐ 10/TTG NGÀY 4 THÁNG 2 NĂM 1963 GIẢI
THÍCH THÔNG TƯ SỐ 73/TTG NGÀY 7-7-1962 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH VỀ VIỆC
QUẢN LÝ TƯ NHÂN CHO THUÊ, ĐẤT VẮNG CHỦ, ĐẤT BỎ HOANG Ở NỘI THÀNH, NỘI THỊ
I - SỰ CẦN
THIẾT PHẢI QUẢN LÝ ĐẤT Ở NỘI THÀNH, NỘI THỊ
Đát ở đô thị, chủ yếu là dùng để
phục vụ nhu cầu về xây dựng cơ bản, mở mang đô thị, phát triển kinh tế. Nhưng
hiện nay một số tư nhân vẫn còn chiếm hữu đất để cho thuê bóc lột; một số khác
lại chiếm hữu bất hợp pháp một số đất công (kể cả đất sa bồi), đất vắng chủ để
tự sử dụng, hoặc để cho thuê và để mua đi, bán lại lấy tiền lại...Việc cho thuê
đất và quản lý đất không hợp pháp của tư nhân nói trên đã gây trở ngại đến đời
sống của người lao động thuê đất, đến việc xây dựng và mở mang thành phố. Hình
thức bóc lột về cho thuê đất hiện nay là không phù hợp với giai đoạn cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta.
Tình hình đó đòi hỏi Nhà nước phải
tiến hành việc quản lý toàn bộ đất đai ở đô thị. Trước mắt là phải quản lý đất
cho thuê của tư nhân, đất vắng chủ, đất bỏ hoang nhằm xoá bỏ tàn dư bóc lột lạc
hậu về đất đai, chấm dứt tình trạng chiếm hữu không hợp pháp của tư nhân về các
loại đất công (kể cả đất sa bồi), đất vắng chủ, để góp phần thuận lợi vào sự
nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thành thị. Tinh thần Thông tư số
73-TTg ngày 7 -7 -1962 của Thủ tướng Chính phủ là nhằm đáp yêu cầu đó.
II - VỀ NỘI
DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ ĐẤT
1. Chuyển quyền sở hữu về đất
cho thuê của tư nhân (kể cả bất động sản trên mặt đất như ao, hồ, cây ăn quả
lưu niên, cây cổ thụ, giếng nước và các di tích lịch sử) thành quyền sở hữu của
toàn dân do Nhà nước trực tiếp quản lý, phân phối và sử dụng.
2. Chấm dứt tình trạng chiếm hữu
bất hợp pháp của tư nhân về các loại đất công (kể cả đất sa bồi), đất vắng chủ
và sử dụng hợp lý các loại đất bỏ hoang.
3. Tất cả các loại đất nói ở
trên (kể cả bất động sản có trên mặt đất) đều do Nhà nước trực tiếp quản lý
không phải bồi hoàn tiền cho các chủ có đất. Những ngườihiện đang sử dụng đất hợp
lý đều được phép tiếp tục sử dụng, không phải trả tiền thuế đất mà chỉ phải
đóng thuế thổ trạch hoặc thuế nông nghiệp.
Về phương châm chính sách:
- Dựa vào quần chúng, tiến hành
việc giáo dục những chủ có đất tự nguyện chấp hành chính sách.
- Tuỳ thành phần giai cấp, tuỳ
hoàn cảnh sinh sống của từng người mà đối xử khác nhau.
- Làm nhanh, gọn và tranh thủ
hoàn thành căn bản trong quý I năm 1963.
III - CÁC
CHÍNH SÁCH CỤ THỂ
Dựa vào các chính sách và đường
lối giai cấp của Đảng và Nhà nước, mục II của Thông tư 73/TTg đã quy định các đối
tượng cần giao đất qua Nhà nước quản lý. Đấy là vấn đề quan trọng, Phủ Thủ tướng
thấy cần thiết phải giải thích và hướng dẫn cụ thể như sau:
1. Đối với thành phần bóc lột:
Tất cả các chủ có các loại đất
cho thuê, các loại đất mà chủ có đất không dùng và cho người khác dùng nhờ sau
đây, dù diện tích ấy nhiều hay ít (kể cả bất động sản trên mặt đất ấy) đều do
Nhà nước trực tiếp quản lý và không bồi hoàn cho họ một khoản tiền nào:
- Những địa chủ trước đây đã quy
trong cải cách ruộng đất (không kể việc cải biến thành phần của họ hiện nay);
- Những phú nông có đất cho thuê
ở thành thị;
- Những nhà tư sản đã qua cải tạo
công thương nghiệp tư doanh bằng hình thức công tư hợp doanh hoặc bằng các hình
thức cải tạo khác (kể cả số tư sản gác lại và tư sản kinh doanh vàng bạc);
- Những chủ có nhà cho thuê thuộc
diện cải tạo nhà cửa.
2. Đối với các hội hè, tôn giáo:
Tất cả các hội hè, tôn giáo có đất
cho thuê, đất cho người khác sử dụng nhờ sau đây, dù diện tích ấy nhiều hay ít
(kể cả bất động sản trên mặt đất) đều do Nhà nước trực tiếp quản lý và không bồi
hoàn cho họ một khoản tiền nào:
- Của các đình, đền, phe giáp, bản
làng...
- Của các tổ chức tư nhân và hội
hè khác.
- Của các tổ chức Thiên chúa
giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác.
Riêng đất cho thuê, cho sử dụng
nhờ của các tổ chức tôn giáo thì chúng ta cần chú ý làm tốt về mặt chính trị,
cho nên tuỳ từng trường hợp của từng loại đất cho thuê của họ mà giải quyết như
sau:
Đất cho thuê, cho sử dụng nhờ
thuộc phạm vi ngoại tự thì Nhà nước quản lý theo chính sách.
Đất cho thuê, cho sử dụng nhờ
thuộc phạm vi nội tự thì Nhà nước không quản lý đất này, nhưng Nhà nước xoá bỏ
quan hệ thuê mượn đối với đất đó, người chủ đất không được thu tiền thuê đất nữa.
Nhà nước chỉ cho phép người nào hiện đang sử dụng đất đó được tiếp tục sử dụng
và đóng thuế. Mặt khác, nếu người sử dụng đất đó là người tín đồ muốn giúp đỡ
cho nhà thờ, nhà chùa là tuỳ thuộc họ.
Ruộng đất nào trước đây, trong cải
cách ruộng đất, có để lại cho nhà thờ, nhà chùa để dùng trong việc thờ cúng và
cho những người tu hành có điều kiện sinh sống để làm việc tôn giáo mà nay họ
đem cho thuê thì: nếu những người thuê đất này là xã viên hợp tác xã thì nên vận
động họ đưa ruộng đất đó vào hợp tác xã; nếu người thuê đất đó không phải là xã
viên hợp tác xã thì Nhà nước quản lý đất này và cho phép người đang sử dụng đất
được tiếp tục sử dụng và đóng thuế.
Trong khi thực hiện quản lý đất
cho thuê của các tổ chức tôn giáo thì cần chú ý: những người tu hành chuyên
nghiệp mà hiện nay già yếu mất sức lao động, nguồn sống chỉ dựa vào tiền cho
thuê đất thì Nhà nước tạm hoãn quản lý đất cho thuê của họ. Nếu trường hợp đất
cho thuê của họ quá nhiều thì chỉ hoãn cho họ một số diện tích đất đủ cho việc
thờ cúng và cho người tu hành già yếu này có điều kiện sinh sống để làm việc
tôn giáo. Mức ruộng đất để lại bao nhiêu do Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh
xét và quyết định.
3. Đối với các tư nhân khác:
Tư nhân có các loại đất cho
thuê, cho sử dụng nhờ thuộc thành phần nhân dân lao động thì về nguyên tẵc xoá
bỏ việc cho thuê đất để Nhà nước quản lý và phân phối việc sử dụng đất này. Tuy
nhiên cần làm cho họ thông hiểu chính sách, giáo dục, động viên tinh thần giác
ngộ xã hội chủ nghĩa cho họ để họ tự nguyện chấp hành chính sách. Nhưng về mặt
kinh tế, trong cụ thể cần đi sâu vào hoàn cảnh sinh sống của từng người có đất
cho thuê mà có biện pháp giải quyết thích hợp.
a) Trường hợp cần giao đất cho
thuê qua Nhà nước quản lý:
Những người đã có nghề nghiệp để
làm nguồn sống chính, mức sống gia đình của họ tương đối khá hơn so với mức sống
bình thường của nhân dân nơi đó, thì động viên họ nên làm thủ tục bàn giao đất
qua Nhà nước quản lý và phân phối việc sử dụng.
b) Trường hợp được tạm hoãn:
- Những gia đình thương binh, liệt
sĩ, gia đình có công với cách mạng, những người già yếu mất sức lao động, nguồn
sống chính chỉ dựa vào tiền thuê đất, nói chung những người trên đây đều được tạm
hoãn.
- Những người tuy có sức lao động
nhưng gia đình đông con nhỏ, bình quân thu nhập thấp, đời sống còn nhiều khó khăn
(mức thu nhập thấp thì do Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh tuỳ từng vùng mà
quyết định).
Những cháu mồ côi (không phân biệt
là con của thành phần nào) chưa thành niên không người trông nom, hoặc đã thành
niên nhưng hiện nay còn đang theo học tại trường mà không được phụ cấp học phí
và chỉ sống vào tiền cho thuê đất.
c) Trường hợp được miễn:
- Những người có ít diện tích đất
vừa để tự sử dụng vừa cho thuê hoặc sử dụng nhờ (diện tích cho thuê hoặc cho sử
dụng nhờ vào khoảng 100m2) trên tinh thần giúp đỡ lẫn nhau thì Nhà nước không
quản lý phần đất này.
- Những người có ruộng đất cho
thuê với thời hạn nhất định rồi thôi, khi hết hạn họ lấy lại để tự sử dụng.
- Những người cho thuê từng vụ,
ví dụ trong một năm cho thuê một vụ còn một vụ tự sử dụng.
- Những người vì lý do nào đó
đem cầm cố một thời hạn nhất định, hết hạn rồi lấy đất lại để tự sử dụng.
d) Đất của một số nhân dân lao động
thành thị đi tản cư trong thời kỳ kháng chiến mà nay đất đó đã do người khác sử
dụng:
Trong thời kỳ kháng chiến, những
người còn ở lại thành thị mà tự ý chiếm đất của người khác, nay người có đất muốn
đòi lại đất thì người chiếm đất đó phải trả lại cho chủ cũ. Nếu người đang sử dụng
đất muốn được tiếp tục sử dụng thì do hai bên thương lượng; còn những đất do
chính quyền ta đã xây dựng cơ quan, xí nghiệp Nhà nước hoặc đã phân phối cho
nhân dân xây dựng nhà ở, nay người chủ đất muốn trở về quê cũ làm ăn thì Uỷ ban
hành chính các khu, thành, tỉnh xét cấp cho họ một diện tích đất khác. Nếu đất
còn để trồng trọt hoa màu thì địa phương nên vận động người đang sử dụng đất đó
trả lại cho chủ cũ để họ cư trú làm ăn.
4. Đối với tư nhân chiếm hữu đất
không hợp pháp:
Những người chiếm hữu không hợp
pháp về các loại đất công, đất sa bồi, đất vắng chủ (kể cả sản vật trên mặt đất
ấy) đều phải trả đất ấy lại Nhà nước quản lý. Sau khi họ kê khai rõ ràng, Nhà
nước sẽ giải quyết cụ thể như sau:
- Nếu đất ấy họ sử dụng hợp lý
như tự lao động sản xuất v.v... thì Nhà nước cho phép họ được tiếp tục sử dụng
.
- Nếu đất ấy họ đem cho thuê lấy
tiền thì Nhà nước sẽ không để họ cho thuê nữa mà cấp giấy phép sử dụng cho người
nào hiện đang sử dụng đất ấy.
- Nếu đất ấy họ dùng để mua đi
bán lại, cầm cố, chuyển nhượng thì Nhà nước nghiêm cấm và chỉ thừa nhận và cho
phép những người nào hiện đang sử dụng đất ấy; còn những quan hệ mua bán, cầm cố,
chuyển nhượng trước đây đều không giá trị.
5. Đối với đất bỏ hoang:
Đất bỏ hoang ở đô thị (có chủ hoặc
vô chủ) đều do Nhà nước quản lý. Trong trường hợp chưa sử dụng đến đất đó, thì
Nhà nước tạm thời phân phối cho nhân dân hoặc cho các hợp tác xã nông nghiệp và
các tổ chức sản xuất của các cơ quan, xí nghiệp gần đó để họ tạm thời sử dụng để
trồng trọt hoa màu. Người trực tiếp sản xuất trên đất này phải chấp hành các chế
độ thuế khoá hiện hành.
6. Đối với những người hiện đang
sử dụng đất:
Sau khi Nhà nước đã trực tiếp quản
lý đất thì đối với những người hiện đang sử dụng các loại đất nói ở Thông tư
này, Uỷ ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh sẽ xét việc sử dụng đất của họ
có hợp lý hay không để cấp giấy phép sử dụng cho họ. Nhà nước sẽ lấy lại đất đó
mỗi khi cần dùng cho công cuộc xây dựng các lợi ích công cộng trong thành phố.
Tuyệt đối không ai được dùng đất này để làm phương tiện cầm cố, mua bán, chuyển
nhượng cho người thứ hai, bất cứ lý do nào.
Nếu trên mặt đất có những bất động
sản như: ao, hồ, cây ăn quả lưu niên, cây cổ thụ, giếng nước và các di tích lịch
sử... thì người hiện đang sử dụng đất phải có trách nhiệm bảo vệ. Tuyệt đối
không được tự ý phá huỷ, Uỷ ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh cần có nội
quy bảo vệ những bất động sản này. Đối với những bất động sản như cây cối, giếng
nước, hoa màu... có trên mặt đất ấy là của những người hiện đang sử dụng đất ấy
tự lao động làm ra thì họ có quyền hưởng hoàn toàn hoa lợi, lúc cần cho việc
xây dựng cơ bản mà những bất động sản đó cần phá đi thì Nhà nước sẽ bồi thường
cho họ theo tinh thần Nghị định số 151/TTg ngày 14-4-1959 của Thủ tướng Chính
phủ. Nếu những bất động sản có trên mặt đất không phải của người hiện đang sử dụng
đất ấy làm ra thì do cơ quan quản lý nhà, đất các địa phương trực tiếp quản lý
và thu hoa lợi nếu có.
Trên đây là những điều giải thích
và hướng dẫn cụ thể trong khi thực hiện chính sách quản lý đất. Phủ Thủ tướng
nhắc các Uỷ ban hành chính khu, thành phố, tỉnh cần lãnh đạo chặt chẽ công tác
này và cần dựa vào Thông tư này mà đặt ra các biện pháp tiến hành cho tốt, cố gắng
hoàn thành trong quý I năm 1963. Trong khi thực hiện, nếu có vấn đề gì mới hoặc
mắc mứu thì các địa phương cần báo cáo về Phủ Thủ tướng giải quyết.
Thông tư này không phổ biến ra
ngoài nhân dân.