Thông tư 02/1999/TT-TGCP về quản lý Nhà nước đối với một số hoạt động về tổ chức của đạo Cao Đài do Ban Tôn giáo Chính phủ ban hành

Số hiệu 02/1999/TT-TGCP
Ngày ban hành 30/06/1999
Ngày có hiệu lực 15/07/1999
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Ban Tôn giáo Chính phủ
Người ký ***
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
******

 

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 02/1999/TT-TGCP

Hà Nội, ngày 30 tháng 06 năm 1999 

 

THÔNG TƯ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG VỀ TỔ CHỨC CỦA ĐẠO CAO ĐÀI.

Căn cứ Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của Chính phủ "Về các hoạt động tôn giáo";
Được sự uỷ quyền của Thủ tướng, Chính phủ (tại, Thông báo số 68/NC ngày 30/3/1996 của Văn phòng Chính phủ.
Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của đồng bào theo dạo Cao đài và yêu cầu công tác quan lý Nhà nước đối với đạo Cao đài;
Ban Tôn giáo của Chính phủ hướng dẫn công tác quản lý Nhà nước đối với một số hoạt động về tổ chức của đạo Cao đài.

I- VỀ NHÂN SƯ LÃNH ĐẠO GIÁO HỘI :

1- Các hệ phái Cao đài được Nhà nước cho phép hoạt động đều xây dựng cơ cấu Giáo hội hai cấp : Hội thánh và Họ đạo. ở các tỉnh, thành phố có nhiều Họ đạo, các Giáo hội Cao đài được cử Đại diện Hội thánh (hoặc Ban đại diện Hội thánh).

2- Nhân sự lãnh đạo Giáo hội các phái Cao đài (Thượng hội và Ban Thường trực Hội thánh, có phái gọi ]à Hội đồng Lưỡng đài hoặc Hội đồng Chưởng quản) được Hội nhân sanh hoặc Hội Vạn linh suy củ, do Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ chấp thuận.

3- Đại diện Hội thánh (hoặc Ban Đại diện Hội thánh) tại tỉnh , thành phố được Ban Thường trực Hội thánh hoặc Hội đồng Chưởng quản, Hội đồng Lưỡng đài Hội thánh bổ nhiệm do Chủ tích ủy ban Nhân dân cấp tỉnh chấp thuận.

4- Ban cai quản Họ đạo được Hội nhân sanh Họ đạo bầu chọn do Trưởng ban Tôn giáo chính quyền cấp tỉnh chấp thuận.

5- Chức sắc đầu Họ đạo (Giáo hữu hoặc Lễ sanh) do Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh chấp thuận.

II- VIỆC CÔNG CỬ CHỨC SẮC :

1- Các Giáo hội Cao đài được Nhà nước cho phép hoạt dộng được tiến hành việc công cử chức sắc theo đúng Hiến chương (Đạo quy) và Luật công cử chức sắc đã được Nhà nước công nhận.

2- Chức sắc đứng đầu Giáo hội như phẩm Hộ pháp và Giáo tông do Thủ tưởng Chính phủ chấp thuận.

3- Chức sắc được công cử lên các phẩm ",từ Phối sư đến Chưởng pháp (Cửu trùng đài) và các phẩm tương đương do Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ chấp thuận. '

4- Các phẩm từ Giáo sư (Cửu trùng đài) và tương đương trở xuống do Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh chấp thuận.

5- Những chức sắc, trước đây về tu tại gia đình, không hoạt động tôn giáo theo phẩm cấp, có nguyện vọng trở lại hoạt động theo chức trách, chức vụ tôn giáo cũ phải được Ban Thường trực Hội thánh đề nghị và do cơ quan Nhà nước cấp có thẩm quyền chấp thuận (theo phân cấp ở mục 1, 2, 3, 4) thì mới được hoạt động.

III- VIỆC ĐÀO TẠO CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC

1- Các Giáo hội Cao đài được Nhà nước cho phép hoạt động được tổ chức việc đào tạo chức sắc, chức việc theo Hiến chương (Đạo quy) đã được Nhà nước chấp thuận.

2- Các lớp huấn luyện khoa mục chuyên môn cho chức sắc, chức việc : Đầu phòng văn, Giáo nhi, Luật sự...mở tại Toà thánh của từng hệ phái do Trưởng Ban Tôn giáo cấp tỉnh nơi có Toà thánh, cho phép.

3- Các lớp giáo lý hạnh đường cho chức sắc do Ban Thường trực Hội thánh tổ chức có thời gian dưới 3 tháng do Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh nơi có cơ quan Toà thánh, cho phép; nếu thời gian từ 3 tháng trở lên do Ban Tôn giáo của Chính phủ cho phép.

4- Trường đào tạo chức sắc phải do Thủ tướng Chính phủ cho phép.

IV- VIỆC SINH HOẠT CỦA TỔ CHỨC GIÁO HỘI :

1- Các Giáo hội Cao đài được Nhà nước cho phép hoạt động được duy trì các hoạt động về tổ chức Giáo hội theo Hiến chương (Đạo quy) đã được Nhà nước chấp thuận, như : Hội Nhân sanh, Hội thánh, Thượng hội, Hội Vạn linh.

2- Hội Vạn linh do Thủ tướng Chính phủ cho phép.

3- Các sinh hoạt như Hội nhân sanh, Hội thánh theo định kỳ ,3 năm hoặc 5 năm một lần có quy mô như Đại hội do Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ cho phép.

4- Các sinh hoạt như: Hội Nhân sanh, Hội thánh, Thượng Hội hàng năm (thường mên) và các Hội nghị Ban Thường trực Hội thánh do Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh nơi có cơ quan Toà thánh, cho phép.

5- Hội nhân sanh ở các Họ đạo tổ chức theo định kỳ 3 năm hoặc ,5 năm một lần để bầu Ban cai quản thánh thất, cử đại biểu đi dự Hội nhân sanh toàn phái do Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh cho phép.

6- Đối với các phái Cao đài trước đây khi tổ chức đại Hội đại biểu tín đồ, chức sắc xây dựng Giáo hội mới đã được phân cấp Cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý thì nay các vấn đề về : nhân sự lãnh đạo giáo hội, cộng cử chức sắc, sinh hoạt của tổ chức giáo hội cũng do Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét quyết định.

V- VIỆC KHẮC VÀ SỬ DUNG CON DẤU :

[...]