Thông báo 2534/TB-BTP về kết luận của Bộ trưởng Hà Hùng Cường tại Hội nghị giao ban công tác tư pháp 6 tháng đầu năm 2009 do Bộ Tư pháp ban hành

Số hiệu 2534/TB-BTP
Ngày ban hành 03/08/2009
Ngày có hiệu lực 03/08/2009
Loại văn bản Thông báo
Cơ quan ban hành Bộ Tư pháp
Người ký Lê Hồng Sơn
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

BỘ TƯ PHÁP
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------

Số: 2534/TB-BTP

Hà Nội, ngày 03 tháng 8 năm 2009

 

THÔNG BÁO

KẾT LUẬN CỦA BỘ TRƯỞNG HÀ HÙNG CƯỜNG TẠI HỘI NGHỊ GIAO BAN CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009

Ngày 23/7/2009, Hội nghị giao ban trực tuyến công tác tư pháp 6 tháng đầu năm 2009 đã được tiến hành dưới sự chủ trì của các đồng chí Lãnh đạo Bộ. Tham dự Hội nghị tại 7 điểm cầu (Hà Nội, Yên Bái, Quảng Bình, Đắk Lắk, Khánh Hoà, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ) có các đồng chí Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, Giám đốc, Chánh văn phòng Sở Tư pháp, Trưởng Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Sau khi nghe báo cáo kết quả công tác tư pháp 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp những tháng cuối năm và các ý kiến phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Hà Hùng Cường đã kết luận như sau:

I/ VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC HỘI NGHỊ:

Đây là lần đầu tiên ngành Tư pháp tổ chức giao ban trực tuyến, tuy còn một số bỡ ngỡ, lúng túng, nhưng nhìn chung Hội nghị đã diễn ra suôn sẻ, theo đúng dự kiến. Công tác chuẩn bị Hội nghị cơ bản được tiến hành chu đáo, nội dung Hội nghị sát với yêu cầu công tác, văn kiện trình Hội nghị có chất lượng, việc điều hành Hội nghị có đổi mới, sự phối hợp giữa các đầu cầu Hội nghị diễn ra thông suốt, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác điều hành của Bộ, Ngành. Đề nghị các đại biểu tham dự Hội nghị đóng góp ý kiến với Ban tổ chức để rút kinh nghiệm cho những hội nghị trực tuyến lần sau được tiến hành tốt hơn.

Ngoài 4 ý kiến trả lời của Thủ trưởng một số đơn vị thuộc Bộ, Hội nghị còn có 20 ý kiến tham luận về những vấn đề khác nhau liên quan đến các lĩnh vực công tác trọng tâm của Ngành. Nhìn chung các ý kiến tham luận đặt trúng vấn đề, nhìn thẳng vào sự thật; tuy nội dung đa dạng, phong phú, nhưng rất tập trung, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, thái độ nghiêm túc với công việc của các đại biểu. Hội nghị về cơ bản đã đánh giá đúng kết quả công tác 6 tháng vừa qua, nhất là kết quả thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm; ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị triển khai công tác tư pháp năm 2009, nhận rõ những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân, xác định cơ bản chính xác nhiệm vụ ưu tiên thực hiện trong những tháng cuối năm và các giải pháp thực hiện.

II/ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009

1. Những kết quả tích cực đã đạt được:

Trong 6 tháng đầu năm 2009, toàn Ngành đã triển khai đồng bộ các mặt công tác thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình với việc tập trung mạnh vào 5 ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và 7 nhóm nhiệm vụ trọng tâm; một số lĩnh vực hoạt động đã có chuyển biến tích cực, sát với yêu cầu thực tiễn, đạt kết quả cao hơn so với những năm trước, nổi bật như:

a. Nhiệm vụ quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật được chú trọng triển khai và tiếp tục thu được kết quả đáng khích lệ; công tác văn bản QPPL ở Trung ương tiếp tục hướng mạnh vào việc tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, đơn giản hơn, chú trọng giảm thiểu sự chồng chéo, thủ tục rườm rà, góp phần chống suy giảm kinh tế, đồng thời cũng tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế Ngành; nhiều Sở Tư pháp đã trở thành “người gác cổng” đáng tin cậy về xây dựng thể chế, văn bản QPPL cho HĐND, UBND cấp tỉnh; nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành pháp luật đang được triển khai tích cực và có những kết quả cụ thể.

Bộ đã tham mưu cho Chính phủ xây dựng, trình Quốc thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 ngay từ kỳ họp đầu năm 2009 (sớm hơn 6 tháng so với các năm trước), Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1999; tham mưu đưa những nội dung cơ bản của dự án Luật đăng ký bất động sản vào Luật sửa đổi, bổ sung một số luật về đầu tư, xây dựng, được Quốc hội chấp thuận; xây dựng, trình Chính phủ cho ý kiến dự án Luật Nuôi con nuôi, Luật Tiếp cận thông tin; xây dựng trình Chính phủ ban hành nhiều Nghị định, Quyết định, Chỉ thị liên quan đến các mặt hoạt động của Ngành; đặc biệt, lần đầu tiên Bộ có Báo cáo Chính phủ về tình hình xây dựng luật, pháp lệnh Quý II năm 2009 và đã được đưa vào chương trình họp thường kỳ Chính phủ tháng 6/2009.

Công tác văn bản của nhiều địa phương tiếp tục đi vào nền nếp, nổi bật là Sở Tư pháp Hà Nội đã tích cực góp phần cho việc nhất thể hoá văn bản QPPL của Hà Nội và Hà Tây sau khi hợp nhất, được HĐND, UBND Thành phố đánh giá cao.

b. Việc triển khai thi hành Luật Thi hành án dân sự, Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật Thi hành án dân sự được chỉ đạo cụ thể, kịp thời, có phần quyết liệt và được tiến hành đồng bộ, rộng khắp từ Trung ương tới các địa phương với sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, ngành và địa phương, nhờ đó nhiều khó khăn, lúng túng trong quá trình thi hành Luật đã được phát hiện, tháo gỡ. Bộ cũng đã kịp thời ban hành công văn hướng dẫn việc áp dụng pháp luật trong thời gian chờ Chính phủ ban hành các nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự. Kết quả thi hành án về việc cao hơn so với cùng kỳ năm 2008.

c. Công tác hành chính tư pháp tiếp tục đi vào nền nếp và có nhiều chuyển biến tích cực. Thể chế công tác hành chính tư pháp được hoàn thiện một bước đáng kể với sự ra đời của Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi), Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, theo đó Ngành ta tiếp tục được Quốc hội tin tưởng giao nhiệm vụ giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động lý lịch tư pháp và bổ sung nhiệm vụ giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước. Việc triển khai thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) tuy có chậm nhưng được thực hiện khá bài bản. Một số địa phương đã chủ động, tích cực kiểm tra, thanh tra hoạt động chứng thực của UBND các cấp, qua đó đã phát hiện, chấn chỉnh nhiều sai sót, bất cập phát sinh.

d. Công tác quản lý nhà nước về hoạt động bổ trợ tư pháp, nhất là luật sư, công chứng đạt nhiều thành tích, nổi bật là: đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất để thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam; tham mưu cho Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 33-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; việc xã hội hoá hoạt động công chứng tiếp tục được đẩy mạnh và được xã hội đón nhận; Bộ đã chỉ đạo quyết liệt các Sở Tư pháp tham mưu cho UBND tỉnh chuyển giao việc chứng thực các giao dịch, hợp đồng liên quan đến nhà, đất từ UBND sang cho các tổ chức hành nghề công chứng ở những địa bàn mà các tổ chức hành nghề công chứng có thể đảm đương được nhiệm vụ này.

đ. Cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước của Ngành tiếp tục được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả cụ thể. Một số văn bản do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo đã hiện thực hoá được những tư tưởng, nội dung của cải cách tư pháp (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS đã bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội so với Bộ luật Hình sự năm 1999; Luật Lý lịch tư pháp là một bước kiện toàn cơ bản thể chế về công tác lý lịch tư pháp; Đề án thực hiện thí điểm Thừa phát lại tại TP. HCM đã được Chính phủ phê duyệt...). Toàn Ngành đã tiến hành sơ kết 03 năm thực hiện Nghị quyết số 49–NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, được Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đánh giá cao; đặc biệt, Bộ đã tham mưu cho Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chuẩn bị sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 48–NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

e. Thể chế, tổ chức bộ máy, cán bộ của Bộ, của Ngành từ Trung ương đến địa phương tiếp tục được kiện toàn. Bộ đã ban hành các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của phần lớn các đơn vị thuộc Bộ theo Nghị định số 93, trong đó có 02 đơn vị mới, đồng thời điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của một số đơn vị cho hợp lý hơn; tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định 16 về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số 13, trong đó giao Sở Tư pháp tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản và theo dõi chung về thi hành pháp luật; phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 01 (thay thế Thông tư liên tịch số 04) hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan tư pháp địa phương. Đặc biệt, Ban cán sự Đảng đã có Công văn số 60-CV/BCS gửi Ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ đề nghị quan tâm kiện toàn, củng cố cơ quan tư pháp địa phương, được sự đón nhận của cấp uỷ, chính quyền địa phương. Bộ cũng đã quan tâm kiện toàn Cục Thi hành án dân sự theo Quyết định số 32/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự về tổ chức, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự.

g. Hoạt động chỉ đạo điều hành công tác tư pháp sâu sát, quyết liệt hơn, gắn kết hơn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh của cả nước và từng địa phương; sự phối kết hợp với các Bộ, ngành, cấp uỷ, chính quyền địa phương có nhiều cải thiện, bước đầu tranh thủ được sự ủng hộ và huy động sức mạnh tổng hợp thực hiện các nhiệm vụ của Ngành, thể hiện rõ nhất trong việc phối kết hợp chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất để thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Bên cạnh những nhiệm vụ trọng tâm, các mặt công tác khác của Ngành trong 6 tháng qua (như: trợ giúp pháp lý; phổ biến giáo dục pháp luật; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật; đào tạo, nghiên cứu khoa học; công nghệ thông tin, xuất bản, báo chí, v.v...) cũng đạt được nhiều kết quả tích cực, có sự khởi sắc mới.

2. Những hạn chế, bất cập:

Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, công tác của Ngành 6 tháng đầu năm cũng còn một số hạn chế, bất cập, thậm chí yếu kém so với yêu cầu nhiệm vụ, nhất là trong tình hình giải quyết các nhiệm vụ cấp bách mà Quốc hội, Chính phủ đề ra như:

a. Nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành pháp luật chưa triển khai được; quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật còn lúng túng, nhất là ở các địa phương; tiến độ, chất lượng hoạt động xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL còn chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Công tác văn bản vẫn còn tư duy pháp lý thuần tuý, chưa có những đóng góp thực sự rõ nét trong việc rà soát các thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, chống suy giảm kinh tế, kích cầu để tăng trưởng kinh tế của đất nước và địa phương, chưa gắn với việc cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Vai trò giúp UBND cấp tỉnh trong hoạt động quản lý nhà nước về công tác văn bản QPPL ở nhiều địa phương chưa phát huy được.

b. Thi hành án dân sự kết quả về tiền khá thấp (giảm 2,01% so với cùng kỳ năm 2008), có nguy cơ không hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch cả năm; tỷ lệ án không có điều kiện thi hành cao hơn các năm trước; việc rà soát, đánh giá thực trạng cơ sở vật chất, tổ chức, cán bộ ngành THADS còn chậm; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tuy có nhiều cố gắng nhưng một số vụ khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài vẫn chưa giải quyết dứt điểm; việc xử lý những vụ việc liên quan đến cán bộ, công chức THADS còn chậm, gây tâm lý không tốt, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của cán bộ, có những việc Ban cán sự, Lãnh đạo Bộ phải trực tiếp làm việc với địa phương.

c. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư pháp vẫn còn nhiều lúng túng, nhất là trong công tác chứng thực, hộ tịch.

d. Công tác quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp còn nhiều bất cập; một số vấn đề nảy sinh khi thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng chưa được khắc phục kịp thời, đã xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng; nhiều địa phương chưa có quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng; việc hướng dẫn, theo dõi, thống kê việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực các giao dịch, hợp đồng liên quan đến nhà, đất từ UBND sang các tổ chức hành nghề công chứng còn chậm, thiếu sâu sát, dẫn đến một số địa phương triển khai chệch hướng; quản lý luật sư còn nhiều lúng túng, tình trạng luật sư vi phạm pháp luật có việc nghiêm trọng; quản lý hoạt động giám định tư pháp còn nhiều bất cập; nhận thức về vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu giá tài sản chưa đầy đủ.

đ. Tổ chức bộ máy, cán bộ chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ, nổi lên là: Tổ chức bộ máy của nhiều Sở Tư pháp chưa thật hợp lý (hầu hết các Sở gộp hai mảng công tác rất lớn là hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp vào một phòng với 3,4 cán bộ); cơ cấu nhân sự của nhiều Sở Tư pháp không hợp lý, biên chế nhìn chung thiếu, nhiều nơi biên chế sự nghiệp còn lớn hơn biên chế quản lý nhà nước; đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện và cấp xã chưa được kiện toàn một bước căn bản, vẫn thiếu về số lượng và yếu về chuyên môn nghiệp vụ, nhiều chỗ bố trí không đúng người, còn có hiện tượng kiêm nhiệm (Phó công an xã); pháp chế các sở, ngành của các địa phương chưa được kiện toàn theo Nghị định số 122/2004/NĐ-CP của Chính phủ.

e. Việc hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ của một số đơn vị thuộc Bộ còn chưa kịp thời, chất lượng chưa cao, bên cạnh đó nhiều cơ quan tư pháp địa phương không thật chủ động trong việc giải quyết công việc theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, một số Sở Tư pháp chưa quan tâm thoả đáng tới việc hướng dẫn nghiệp vụ cho các cơ quan tư pháp cấp huyện, cấp xã, các tổ chức hành nghề tư pháp.

Những hạn chế, bất cập nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nổi lên các nguyên nhân chủ quan như sau:

[...]