Thông báo 107/TB-VPCP kết luận Hội nghị thực hiện Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Chính phủ và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam năm 2014 do Văn phòng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 107/TB-VPCP |
Ngày ban hành | 18/03/2014 |
Ngày có hiệu lực | 18/03/2014 |
Loại văn bản | Thông báo |
Cơ quan ban hành | Văn phòng Chính phủ |
Người ký | Nguyễn Văn Tùng |
Lĩnh vực | Lao động - Tiền lương,Bộ máy hành chính |
VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 107/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 18 tháng 03 năm 2014 |
Thực hiện Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Chính phủ và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, ngày 11 tháng 3 năm 2014 tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã làm việc với Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Cùng dự có đồng chí Đặng Ngọc Tùng, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn; lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Nội vụ, Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội, Giáo dục và Đào tạo, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Văn phòng Chính phủ.
Sau khi nghe Phó Chủ tịch Thường trực Tổng Liên đoàn Trần Thanh Hải báo cáo kết quả thực hiện Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Chính phủ và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 2013, trọng tâm phối hợp công tác năm 2014 và một số kiến nghị của Tổng Liên đoàn; Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Văn Tùng báo cáo tổng hợp ý kiến của các Bộ, cơ quan liên quan về các kiến nghị của Tổng Liên đoàn; ý kiến của đại biểu dự họp; phát biểu của Chủ tịch Tổng Liên đoàn Đặng Ngọc Tùng; Thủ tướng Chính phủ kết luận hội nghị như sau:
Năm 2013, mặc dù tình hình trong nước tiếp tục gặp nhiều khó khăn, trong bối cảnh thế giới diễn biến khó lường, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự cố gắng của cả hệ thống chính trị, trong đó có Tổng Liên đoàn cùng các ngành, các cấp cộng đồng doanh nghiệp và người lao động đã cơ bản đạt được mục tiêu đề ra. Kinh tế - xã hội nước ta đã có những chuyển biến tích cực, đúng hướng; lạm phát đã được kiềm chế, kinh tế vĩ mô cơ bản được ổn định; an sinh và phúc lợi xã hội, đời sống nhân dân được cải thiện; cải cách hành chính được đẩy mạnh; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đạt được nhiều kết quả; sức mạnh và tiềm lực quốc phòng được tăng cường; độc lập chủ quyền quốc gia được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều thành tựu nổi bật, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Chính phủ hoan nghênh những kết quả đã đạt được trong phối hợp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và Tổng Liên đoàn trong năm 2013. Sự phối hợp công tác giữa hai bên đã đạt được hiệu quả thiết thực giúp Chính phủ và Tổng Liên đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, qua đó góp phần vào những thành tựu chung của đất nước.
Chính phủ đánh giá cao vai trò và kết quả công tác của Tổng Liên đoàn năm 2013: Đã phối hợp tổ chức thành công Đại hội Công đoàn các cấp và Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XI; chủ động tham gia với các cơ quan của Chính phủ xây dựng chính sách và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nổi bật là phối hợp xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Công đoàn và Bộ luật Lao động năm 2012, phối hợp tham gia sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và các văn bản pháp luật có liên quan; có nhiều đề xuất, giải pháp hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp trong việc duy trì, ổn định sản xuất, giải quyết việc làm, thu nhập, bảo đảm đời sống của người lao động, cũng như xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp; tham gia tích cực hiệu quả với Đoàn đàm phán của Chính phủ trong công tác đàm phán Hiệp định Thương mại kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP); chủ động phối hợp thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở; tuyên truyền và thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính; tham gia tích cực vào quá trình cổ phần hóa, tái cơ cấu, sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, góp phần vào việc tái cơ cấu lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hạn chế lao động mất việc làm, giải quyết chế độ cho lao động dôi dư; phối hợp tốt trong xây dựng và hoàn thiện đề án "Nhân rộng mô hình tổ chức, hoạt động Quỹ trợ vốn cho công nhân, lao động nghèo tự tạo việc làm với sự hỗ trợ vốn từ ngân sách nhà nước", đề án Nâng cao năng lực cơ sở dạy nghề của tổ chức Công đoàn đến năm 2020, có sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước"; các hoạt động xã hội của Công đoàn tiếp tục góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính sách an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước và thu hút sự ủng hộ đông đảo của cán bộ, đoàn viên, người lao động và các nhà hảo tâm, đã kịp thời chăm lo đến đoàn viên, người lao động trong những lúc khó khăn, bão lũ, hỗ trợ các gia đình chính sách và những người có hoàn cảnh đặc biệt trong xã hội; tiếp tục triển khai tốt các hoạt động hướng tới ngư dân và biển đảo thông qua chương trình "Tấm lưới nghĩa tình vì ngư dân Hoàng Sa, Trường Sa", thành lập nghiệp đoàn nghề cá...
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc phối hợp công tác giữa Chính phủ và Tổng Liên đoàn vẫn còn một số hạn chế, như:
- Việc giải quyết một số kiến nghị của công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn, nhất là triển khai thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đề cập và kết luận của Thủ tướng Chính phủ có việc còn chậm, chưa tạo được chuyển biến rõ nét;
- Ý kiến của Tổng Liên đoàn và các cấp công đoàn trong quá trình soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chế độ, chính sách của người lao động, chưa được tiếp thu và phản hồi;
- Đại diện lãnh đạo Chính phủ chưa thường xuyên dự các kỳ họp Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn để lắng nghe ý kiến cán bộ công đoàn, kiến nghị của người lao động.
2. Về nhiệm vụ phối hợp công tác năm 2014.
Căn cứ vào tình hình chung của đất nước, Chính phủ và Tổng Liên đoàn cần tập trung phối hợp thường xuyên, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, trong đó chú trọng thực hiện tốt các trọng tâm công tác sau:
a) Phối hợp xây dựng pháp luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến công nhân, viên chức, người lao động;
b) Tăng cường phối hợp kiểm tra, giám sát, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, người lao động;
c) Phối hợp trong công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, ý thức công dân;
d) Phối hợp tổ chức các phong trào thi đua;
đ) Phối hợp trong việc trao đổi thông tin; tiếp nhận và giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách liên quan trực tiếp đến người lao động.
3. Về một số kiến nghị của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
a) Về ban hành Nghị định hướng dẫn Khoản 2, Điều 31 Luật Công đoàn năm 2012 về xử phạt hành chính hành vi vi phạm pháp luật Công đoàn và Nghị định hướng dẫn Chương X Bộ luật Lao động năm 2012 về chính sách đối với lao động nữ thay thế Nghị định 23/1996/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 1996 của Chính phủ:
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Tổng Liên đoàn khẩn trương thực hiện ý kiến Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1189/VPCP-KGVX ngày 21 tháng 02 năm 2014 của Văn phòng Chính phủ.
b) Về ban hành Nghị định cho người lao động dôi dư do tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước được hưởng chính sách theo quy định tại Nghị định số 91/2010/NĐ-CP ngày 20 tháng 8 năm 2010, không phụ thuộc doanh nghiệp đó đã sắp xếp khi chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc cổ phần hóa trước đây:
Giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn, các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất cụ thể, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
c) Về xây dựng lộ trình điều chỉnh tiền lương tối thiểu:
Giao Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng lộ trình điều chỉnh tiền lương tối thiểu đáp ứng mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ theo Điều 91 Bộ luật Lao động năm 2012 và kết luận số 63-KL/TW ngày 27 tháng 5 năm 2013 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI), báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
d) Về cơ chế, chính sách hỗ trợ ngư dân, đoàn viên nghiệp đoàn nghề cá, động viên ngư dân bám ngư trường, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc:
Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Tổng Liên đoàn, các Bộ, ngành liên quan đề xuất cụ thể các chính sách cần hỗ trợ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.