Thông báo số 08/TB-VPCP về ý kiến kết luận của Thủ tướng Phan Văn Khải về Chương trình phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam gắn với phát tiển vùng nguyên liệu từ nay đến 2010 do Văn phòng chính phủ ban hành

Số hiệu 08/TB-VPCP
Ngày ban hành 21/01/2002
Ngày có hiệu lực 21/01/2002
Loại văn bản Thông báo
Cơ quan ban hành Văn phòng Chính phủ
Người ký Văn Trọng Lý
Lĩnh vực Thương mại

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 08/TB-VPCP

Hà Nội, ngày 21 tháng 1 năm 2002

 

THÔNG BÁO

CỦA VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ SỐ 08/TB-VPCP NGÀY 21 THÁNG 01 NĂM 2002 VỀ Ý KIẾN KẾT LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG PHAN VĂN KHẢI VỀ CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIẤY VIỆT NAM GẮN VỚI PHÁT TRIỂN VÙNG NGUYÊN LIỆU TỪ NAY ĐẾN 2010

Ngày 26 tháng 11 năm 2001, tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Phan Văn Khải chủ trì cuộc họp về Chương trình phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam gắn với phát triển vùng nguyên liệu từ nay đến năm 2010. Tham dự họp có Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm; lãnh đạo các Bộ, ngành: Công nghiệp, Kế hoạch và Đầu tư, Thương mại, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; đại diện các Bộ: Tài chính, Khoa học, Công nghệ và Môi trường và Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Tổng công ty Giấy Việt Nam.

Sau khi nghe Lãnh đạo Bộ Công nghiệp và Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Giấy Việt Nam báo cáo, ý kiến của các Phó Thủ tướng và các Bộ, ngành; Thủ tướng Phan Văn Khải kết luận:

1. Những năm qua, ngành giấy Việt Nam có tốc độ phát triển tương đối nhanh, huy động được các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh phát triển đúng hướng, đáp ứng phần lớn nhu cầu tiêu dùng trong nước; Tổng công ty Giấy Việt Nam đã thực hiện được vai trò nòng cốt, khẳng định được vị thế chủ đạo đối với thị trường trong nước, góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước.

Tuy nhiên, mặt hạn chế làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của ngành giấy nói chung và của Tổng công ty Giấy nói riêng là:

- Các dự án xây dựng nhà máy còn chưa chú trọng gắn kết chặt chẽ với vùng nguyên liệu, tình trạng mất cần đối về nguyên liệu vẫn xảy ra. Việc quy hoạch phát triển vùng trồng cây nguyên liệu làm còn chậm, chưa theo kịp nhu cầu sản xuất trước mắt và những năm sắp tới.

- Triển khai các dự án đầu tư phát triển còn chưa tính đầy đủ, cân đối tổng thể các mặt về sự bền vững lâu dài về hiệu quả kinh tế và xã hội; việc chuẩn bị đầu tư những dự án cụ thể còn chưa dự kiến hết các yếu tố phát sinh, nhất là về vốn và kỹ thuật, do vậy thường bị động từ khâu lập, xét duyệt đến khâu triển khai thực hiện dự án, dẫn tới tình trạng kéo dài và thường phải điều chỉnh.

2. Về nội dung Chương trình phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam gắn với phát triển vùng nguyên liệu từ nay đến 2010.

Nội dung Chương trình phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam gắn với phát triển vùng nguyên liệu từ nay đến năm 2010 do Tổng công ty Giấy Việt Nam xây dựng và các Bộ, ngành liên quan tham gia, về cơ bản đã bám sát thực tế, quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, nhằm phát huy tối đa nội lực, lợi thế so sánh của nước ta để thực hiện mục tiêu: đảm bảo nhu cầu về giấy các loại cho tiêu dùng trong nước và có sản phẩm xuất khẩu; đủ sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới.

a) Về Chương trình phát triển vùng nguyên liệu giấy đến năm 2010:

- Chương trình phát triển vùng nguyên liệu phục vụ ngành công nghiệp giấy có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện Chiến lược phát triển ngành giấy ở nước ta. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần khẩn trương cùng Bộ Công nghiệp triển khai thực hiện việc Quy hoạch vùng rừng nguyên liệu giấy gắn liền với mục tiêu trồng rừng, tạo rào cản đầu nguồn, phòng chống bão lụt, chống soái mòn và bảo vệ đất canh tác cho miền xuôi, tạo thêm việc làm, thu nhập, góp phần cải thiện điều kiện sống của đồng bào các dân tộc vùng cao; đồng thời, bảo đảm thuận tiện cho việc khai thác, vận chuyển nguyên liệu cho nhà máy giấy.

- Hiện nay, năng suất cây rừng của nước ta đang ở mức rất thấp. Việc chuẩn bị tốt nguồn cung cấp giống mới có năng suất cao hơn, tốc độ sinh trưởng nhanh hơn là vấn đề cấp thiết, phải nhanh chóng tổ chức thực hiện.

- Trong thời gian tới cần tập trung phát triển vùng nguyên liệu giấy tập trung ở một số khu vực là: Phú Thọ, Thanh Hoá, Nghệ An, Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và có thể một phần vùng nguyên liệu thuộc Yên Bái, Bắc Giang; đồng thời tiếp tục nghiên cứu khả năng phát triển vùng nguyên liệu giấy, làm bột giấy tại một số địa phương như Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu; nghiên cứu đầu tư xây dựng nhà máy chế biến nguyên liệu với quy mô nhỏ, sản phẩm không đòi hỏi chất lượng cao, phù hợp với năng lực quản lý, sử dụng lao động tại địa phương. Ở Bình Phước, nếu quy hoạch vùng nguyên liệu, thì hướng chủ yếu là để cung ứng nguyên liệu cho nhà máy giấy Đồng Nai.

- Trước mắt, tạm thời cho phép khai thác gỗ rừng trồng để sản xuất gỗ xuất khẩu. Sau khi hoàn thiện quy hoạch các vùng nguyên liệu, sẽ tập trung cho nhiệm vụ sản xuất và xuất khẩu bột giấy nguyên liệu, chấm dứt hình thức xuất khẩu dăm gỗ như hiện nay.

b) Định hướng phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam đến năm 2010:

- Đến năm 2010, sản lượng giấy của toàn ngành tối thiểu phải đạt trên 1,4 triệu tấn giấy và 1,9 triệu tấn bột, trong đó Tổng công ty Giấy Việt Nam chiếm khoảng 60% tổng sản lượng sản xuất giấy và bột giấy toàn ngành; đảm bảo chủ động đủ bột giấy cho sản xuất giấy các loại để hạn chế tối đa nhập khẩu, tiến tới có thể xuất khẩu.

- Phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam phải đảm bảo tiếp cận trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới, có biện pháp ràng buộc đối tác nước ngoài chuyển giao công nghệ để chúng ta vươn lên chủ động sản xuất từng phần hoặc toàn bộ thiết bị sản xuất, hạn chế tối đa việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ để sản xuất giấy như trước đây.

- Đồng thời với việc tập trung xây dựng những nhà máy có quy mô lớn, sản xuất sản phẩm chất lượng cao; cần đẩy mạnh chủ chương xã hội hoá đối với ngành giấy; Nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối (khoảng 51%), số cổ phẩn còn lại sẽ áp dụng hình thức cổ phần hoá, huy động nguồn vốn trong xã hội. Việc bán cổ phần sẽ được ưu tiên cho các đối tượng là cán bộ công nhân viên đang công tác tại nhà máy, các hợp tác xã và các hộ nông dân tham gia phát triển vùng nguyên liệu cung cấp cho nhà máy. Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để khuyến khích mọi thành phần kinh tế và tranh thủ các nhà đầu tư nước ngoài tham gia phát triển ngành giấy.

- Khi xem xét xây dựng các nhà máy sản xuất giấy và bột giấy ở những địa phương có vùng nguyên liệu rộng lớn, ngoài các yếu tố kinh tế, xã hội, phải thấy rõ đặc thù của ngành giấy là lợi nhuận thấp, thu hồi vốn chậm, chi phí xử lý môi trường rất lớn (chiếm từ 20% - 25% tổng chi phí đầu tư), nhất là đối với nhà máy có công suất càng thấp thì suất đầu tư càng cao và khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước sẽ rất thấp. Do vậy, việc quyết định đầu tư từng dự án phải được xem xét cụ thể để bảo đảm hiệu quả lâu dài.

3. Nhiệm vụ của các Bộ, ngành và Tổng công ty Giấy Việt Nam:

a) Bộ Công nghiệp:

- Chỉ đạo Tổng công ty Giấy Việt Nam lấy ý kiến các Bộ, ngành liên quan về xây dựng Chương trình phát triển ngành công nghiệp giấy gắn với phát triển vùng nguyên liệu đến năm 2010, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2002.

- Chủ trì, phối hợp các Bộ, ngành: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Quỹ Hỗ trợ phát triển, nghiên cứu và đề xuất cụ thể các kiến nghị của Tổng công ty Giấy Việt Nam về chính sách ưu đãi đối với một số lĩnh vực đầu tư và sản xuất, kinh doanh bột giấy và giấy; hỗ trợ, nghiên cứu ứng dụng giống cây mới cho công nghiệp giấy, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

- Chỉ đạo Tổng công ty Giấy Việt Nam:

+ Xây dựng thêm vườn ươm, ứng dụng nghiên cứu khoa học, tạo thêm nhiều giống cây mới để nâng cao năng suất và hiệu suất cây trồng.

+ Tổ chức và chỉ đạo việc trực tiếp ký hợp đồng bao tiêu nguyên liệu của các hộ nông dân đã trồng trên diện tích rừng được giao với giá cả hợp lý, để người dân yên tâm trồng rừng; đồng thời ổn định lâu dài về nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất bột giấy và giấy trong toàn ngành.

+ Đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên thuộc Tổng công ty, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia mua cổ phần của các công ty, nhà máy đang sản xuất. Việc đầu tư mới các nhà máy giấy, các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty cần hình thành công ty cổ phần ngay từ đầu.

b) Tổng công ty Giấy Việt Nam.

- Trên cơ sở đánh giá, phân loại cơ cấu sản phẩm cụ thể, cần tập trung đầu tư sản xuất, nâng cấp và mở rộng các nhà máy sản xuất bột giấy tẩy trắng và các loại giấy chất lượng cao, công suất lớn. Tập trung đẩy nhanh tiến độ những dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như: nâng cấp mở rộng Công ty Giấy Bãi Bằng (giai đoạn I và II), Nhà máy bột giấy Kon Tum và hoàn thành báo cáo nghiên cứu khả thi Nhà máy bột giấy Thanh Hoá.

- Đối với Dự án nhà máy giấy Đồng Nai cần có phương án chặt chẽ về hiệu quả kinh tế và nguồn nguyên liệu, bảo đảm hoạt động của nhà máy có hiệu quả lâu dài.

- Khẩn trương rà soát lại và hoàn thiện những dự án mới do Tổng công ty đề xuất trong Quy hoạch phát triển ngành và của Tổng công ty từ nay đến 2010 để bắt đầu xây dựng từ năm 2002 và có thể sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao trước năm 2010. Những dự án này, ngoài việc phải sử dụng kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao để nâng cao hiệu quả đầu tư, trước hết phải bảo đảm nguồn nguyên liệu ổn định phục vụ sản xuất lâu dài; đồng thời, địa điểm xây dựng nhà máy phải gắn với vùng nguyên liệu. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, sản xuất và áp dụng các giống cây mới cho năng suất cao để chuẩn bị tốt nguồn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp giấy trong tương lai.

- Tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, phương pháp tổ chức quản lý sản xuất tiên tiến nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh khi nước ta hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Cho phép Tổng công ty tiếp tục đàm phán, thương thảo với Nhà sản xuất giấy ở nước ngoài về việc mua máy móc thiết bị, dây chuyền hiện đại theo phương thức trả dần, trả chậm và chuyển giao công nghệ sạch (không ô nhiễm môi trường) hoặc mua thiết kế, kết hợp với việc tổ chức sản xuất trong nước một số bộ phận của dây chuyền, thiết bị lẻ và phụ kiện thay thế, nhằm tiết kiệm ngoại tệ; tạo nhanh các điều kiện cho công nghiệp cơ khí trong nước phát triển vươn lên làm lấy là chủ yếu; Chính phủ sẽ hỗ trợ kinh phí để Tổng công ty thực hiện tốt việc này, làm cơ sở áp dụng cho các dự án mới sau này trong toàn ngành.

c) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

- Chủ trì, chịu trách nhiệm nghiên cứu, cân đối và hoàn thiện quy hoạch rừng, dành quỹ đất phục vụ cho chương trình trồng rừng cây nguyên liệu giấy để đảm bảo sự phát triển ổn định lâu dài các vùng rừng nguyên liệu giấy thuần chủng. Thúc đẩy nghiên cứu khoa học công nghệ mới và đưa nhanh những tiến bộ mới về kỹ thuật đến nông dân trồng cây nguyên liệu giấy. Trong quá trình quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu giấy, phải chú ý tới việc đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông từ vùng nguyên liệu đến nhà máy, cơ sở chế biến bột giấy và giấy, nhằm giảm tối đa chi phí vận tải, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh.

- Phối hợp Bộ Công nghiệp, Tổng công ty Giấy Việt Nam, các Bộ, ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân các tỉnh có vùng nguyên liệu khẩn trương điều tra, nghiên cứu, lập Đề án quy hoạch vùng nguyên liệu giấy; đề xuất chính sách ưu đãi khuyến khích nông dân các địa phương tham gia phát triển vùng nguyên liệu cung cấp cho sản xuất bột giấy và giấy. Thực hiện tốt chính sách giao đất giao rừng; gắn đất rừng với từng hộ nông dân, khuyến khích lợi ích vật chất với trách nhiệm người trồng rừng, từng bước nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc vùng cao, vùng sâu, gắn phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng.

d) Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương:

Căn cứ Chương trình phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam gắn với phát triển vùng nguyên liệu đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phối hợp các Bộ, ngành liên quan và Tổng công ty Giấy Việt Nam triển khai quy hoạch vùng nguyên liệu và xây dựng nhà máy sản xuất bột giấy và giấy trên địa bàn địa phương.

Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các Bộ, ngành, đơn vị liên quan và Tổng công ty Giấy Việt Nam biết, thực hiện.

 

Văn Trọng Lý

(Đã ký)