Quyết định 35/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý" tại tỉnh Quảng Ninh do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 35/2006/QĐ-TTg
Ngày ban hành 08/02/2006
Ngày có hiệu lực 27/02/2006
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Gia Khiêm
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương,Văn hóa - Xã hội

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 35/2006/QĐ-TTg

Hà Nội, ngày 08 tháng 02 năm 2006

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN "TỔ CHỨC QUẢN LÝ, DẠY NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN MA TUÝ" TẠI TỈNH QUẢNG NINH

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Phòng, chống ma tuý ngày 22 tháng 12 năm 2000;
Căn cứ Nghị quyết số 16/2003/QH11 ngày 17 tháng 6 năm 2003 của Quốc hội "Về việc thực hiện thí điểm tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý tại thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác trực thuộc Trung ương";
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Chủ tịch Ủy ban ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh
,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Đề án "Tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý" tại tỉnh Quảng Ninh (kèm theo Quyết định này).

Điều 2. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh có trách nhiệm thực hiện thí điểm Đề án; hàng năm tổ chức sơ kết, đánh giá tình hình thực hiện Đề án và báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Điều 3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành có liên quan chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh thực hiện Đề án theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; đồng thời, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện, định kỳ hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện Đề án của tỉnh Quảng Ninh.

Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

Điều 5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 

KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG




Phạm Gia Khiêm

 

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

 

******

 

ĐỀ ÁN

TỔ CHỨC QUẢN LÝ, DẠY NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN MA TUÝ TẠI TỈNH QUẢNG NINH
(Ban hành kèm theo Quyết định số 35/2006/QĐ-TTgngày 08 tháng 02 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ)

Phần thứ 1:

I. KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH NGHIỆN MA TÚYVÀ CÔNG TÁC CAI NGHIỆN PHỤC HỒI TẠI TỈNH QUẢNG NINH

1. Thực trạng tình hình nghiện ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh:

Trong những năm qua, tệ nạn ma tuý ở tỉnh Quảng Ninh diễn biến rất phức tạp và có xu hướng gia tăng. Theo số liệu thống kê năm 1993 cả tỉnh có 282 người nghiện ma tuý, đến tháng 12 năm 2004 số người nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý đã là 2.209 người và 934 người nghi nghiện ma túy chưa có hồ sơ quản lý. Người nghiện ma tuý từ 18 đến 40 tuổi là 2.050 người chiếm 92,8%; điều đáng lo ngại hơn là ma tuý tổng hợp có tính gây nghiện nhanh đã xuất hiện trên địa bàn tỉnh trong vài năm gần đây. Việc gia tăng người nghiện sử dụng ma tuý qua đường tiêm chích đã làm tăng nhanh sự lây nhiễm HIV/AIDS; Quảng Ninh trở thành tỉnh đứng thứ hai về số lượng người nhiễm HIV/AIDS và đứng thứ nhất về tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS trên 100 nghìn dân trong phạm vi toàn quốc.

2. Công tác cai nghiện phục hồi của tỉnh Quảng Ninh thời gian qua:

Ý thức được hiểm họa của tệ nạn ma tuý, Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân và ñy ban nhân dân tỉnh đã thực thi nhiều biện pháp mang tính cấp bách và lâu dài để đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma tuý. Tỉnh uỷ đã có Chỉ thị số 31 nhằm tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác phòng, chống tệ nạn xã hội. Hội đồng nhân dân tØnh có 2 Nghị quyết chuyên đề: Nghị quyết số 1857/NQ-HĐ ngày 02 tháng 8 năm 1999 và Nghị quyết số 39/NQ-HĐ ngày 20 tháng 02 năm 2003 về “Phòng, chống tệ nạn xã hội”; trong đó có mục tiêu: “Thi hành các biện pháp cai nghiện đối với tất cả các đối tượng nghiện ma tuý trong tỉnh. Xây dựng chương trình cụ thể và cơ chế, chính sách cho từng hình thức cai nghiện”.

Để tăng cường các biện pháp nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống ma tuý và cai nghiện phục hồi, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 06/2004/CT-UB ngày 10 tháng 02 năm 2004 “Về thực hiện quyết liệt công tác phòng, chống ma tuý năm 2004”. Sau một thời gian thực hiện, với sự chỉ đạo kiên quyết của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tØnh và sự nỗ lực của các Sở, Ban, ngành, các huyện, thị xã, thành phố, nhận thức của đông đảo nhân dân về tác hại của tệ nạn ma tuý đã có chuyển biến rõ rệt, tạo môi trường xã hội tích cực trong công tác đấu tranh, phòng, chống ma túy, góp phần hạn chế việc phát sinh đối tượng nghiện mới. Công tác đấu tranh triệt phá các ổ nhóm tội phạm buôn bán và tổ chức sử dụng ma tuý đã thu được những kết quả đáng khích lệ, làm chuyển hoá được nhiều địa bàn, tụ điểm phức tạp về ma tuý.

Hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 33,6% số xã, phường, thị trấn (62/184) và 96,1% cơ quan, doanh nghiệp (1.635/1.700) không có ma tuý; đã xây dựng 50 xã, phường lành mạnh không có ma tuý hoặc giảm cơ bản về tệ nạn xã hội.

Tỉnh đã đầu tư trên 7 tỷ đồng xây dựng Trung tâm cai nghiện ma tuý Vạn Cảnh giai đoạn I để tiếp nhận 150 học viên/đợt. Đến nay tiếp tục đầu tư, nâng cấp Trung tâm cai nghiện ma tuý Vạn Cảnh có khả năng tiếp nhận 300 học viên/đợt. Thời gian qua Trung tâm đã chữa trị, giáo dục, phục hồi nhân cách cho 940 lượt người nghiện ma tuý; đưa 628 học viên hoàn thành thời gian cai nghiện tái hoà nhập cộng đồng. Công tác quản lý, bảo vệ, giáo dục học viên tương đối tốt, không thẩm lậu ma tuý. Học viên cai nghiện được tham gia lao động sản xuất bằng nhiều hình thức khác nhau.

Ngoài cai nghiện tập trung, trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã chỉ đạo cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho hàng trăm lượt người nghiện ma tuý nhưng hiệu quả thấp do không có điều kiện thực hiện 5 giai đoạn của quy trình cai nghiện, chỉ thực hiện giai đoạn cắt cơn giải độc sau đó quản lý từ 2 đến 3 tháng do vậy đối tượng tái nghiện nhanh.

Chất lượng và hiệu quả công tác cai nghiện còn thấp, tỷ lệ tái nghiện còn rất cao. Nguyên nhân của tình hình trên là do:

- Thời gian cai nghiện và quản lý sau cai nghiện như hiện nay chưa đủ để người nghiện rèn luyện, phục hồi nhân cách, hình thành thói quen và lối sống tích cực, chưa thực sự thoát khỏi sự lệ thuộc về tâm lý đối với ma tuý.

[...]